Năm Ngọ kể chuyện Ngựa
trong lịch sử văn chương
Tú Anh - RFI Việt ngữ
Đúng vào
lúc 12 giờ đêm (nay) 30/01/2014 con rắn của Quý Tỵ bàn giao năm mới cho con
ngựa Giáp Ngọ. Theo một số nhà chiêm tinh Á Châu đặc biệt là ở Hồng Kông thì
năm Giáp Ngọ sẽ có nhiều biến động và đầy bất trắc, tai tiếng, xung đột, bạo
lực cho đến động đất … ở nhiều nước châu Á.
Tuổi Ngọ được mô tả là con người phóng khoáng, nhanh nhẹn, trung thực nhưng từ « Ngựa » lại gây không ít ngộ nhận cho người tuổi ngựa kể cả trong thành ngữ …
Những
hình ảnh tuyệt đẹp con ngựa trong lịch sử Việt Nam, từ con ngựa sắt của Phù
Đổng Thiên Vương hay sự hy sinh của các chiến mã của Bình Định Vương Lê Lợi có
lẽ người Việt nào cũng biết . Nhưng trong cuộc sống hằng ngày tại sao từ Ngựa
lại mang hai ý nghĩa lúc khen lúc mắng.
Thành ngữ « thẳng ruột ngựa » là đẹp hay xấu ? Bằng cách nào mà
con ngựa Pháp cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng … đủng đỉnh đi vào đời sống và văn
chương bình dân của Việt Nam
? Trong bài khảo luận « Ngựa… và Thẳng ruột ngựa », giáo sư Nguyễn Dư ở Lyon tìm cách trả lời các câu hỏi này.
RFI : Nhân đầu năm
Giáp Ngọ, RFI, qua phần phỏng vấn sau đây, xin giới thiệu bài khảo luận vừa
nghiêm túc vừa ý nhị của tác giả. Ngựa và… Thẳng ruột ngựa !
Nguyễn
Dư : Ngựa
không gần gũi người Việt bằng trâu. Ngựa chỉ biết kéo xe, không biết kéo cày.
Ngựa còn bị khiển trách là không chịu tham gia khề khà chén chú chén anh. Đảo
mắt nhìn quanh chỉ thấy nào lẩu dê, bê thui, nào dồi chó, cật heo, nào… Thôi
đừng nói nữa, ta thèm !
Tuy vậy,
ngựa chưa phải là hoàn toàn vô tích sự. Ngược lại, ngựa đóng một vai trò quan
trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Thần thoại của ta có cậu bé làng
Phù Đổng sinh ra chẳng nói chẳng cười, trơ trơ, nghe tin vua tìm người cứu
nước, bèn vươn vai hoá thành chàng trai cao lớn. Chàng xin vua cho đúc một con
ngựa sắt để đi dẹp giặc Ân. Giặc tan…
Áo
nhung cởi lại Linh-san
Thoắt
đà thoát nợ trần hoàn lên tiên. (Đại Nam quốc sử diễn ca)
Hình ảnh
đẹp tuyệt vời. Dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Giặc tan, thánh Gióng cưỡi ngựa sắt
bay lên trời. Không ở lại lo tính chuyện làm vua! Phải là thánh mới hành động…
như vậy. (Suýt buột miệng phê bình thánh Gióng hành động… thiếu suy nghĩ. Tấu
lạy Ngài, vạn lạy Ngài, xin Ngài xá tội cho).
Tục
truyền vua Lý Thái Tổ (1010-1028) xây thành Thăng Long cứ bị lún, đổ. Xây mãi
không được. Vua phải sai các quan đến cầu đảo tại đền Long Đỗ. Lễ vừa xong thì
có một con ngựa trắng (Bạch Mã) từ trong đền đi ra, chạy một vòng rồi trở về
đền. Vua bèn hạ lệnh bắt xây thành theo dấu chân ngựa chạy.
Thành
Thăng Long được hoàn thành. Vua phong Bạch Mã là tối linh thượng đẳng thần,
Thành Hoàng của thành Thăng Long.
Ngựa ngự
trị trong tín ngưỡng dân gian. Tĩnh, điện trong nhà, hay gốc đa, gốc me, hốc đá
ngoài đường được chọn làm nơi nhang khói thờ các ông hoàng, bà chúa, cậu quận.
Ban thờ luôn có vài con ngựa để các ngài dùng làm phương tiện di chuyển.
Từ ngày
nước ta bị Pháp cai trị, dân ta bất đắc dĩ phải làm quen với ngoại hình, nội
tạng của ngựa.
Xưa kia,
ai vô phúc phải đáo tụng đình (đến toà án), thì sẽ được biết cái vành móng
ngựa. Vành bằng gỗ cao độ một mét, hình bán nguyệt. Trông giống hình miếng sắt
đóng dưới móng chân ngựa (fer à cheval). Bị can đứng trong vành nghe quan toà
buộc tội, thầy cãi bào chữa. Vành móng ngựa của thực dân ngày nay vẫn còn được
dùng.
Mấy ông
lính cô-lô-nhần (thực dân) ngoài Bắc rất ngán ngẩm cái mùa đông rét mướt, nhiều
mưa phùn. Đóng cái áo bành tô màu cứt ngựa nặng chình chịch mà vẫn chưa đủ ấm.
Cái màu xanh lá cây độc đáo! Không sáng như màu hoa thiên lí. Không xỉn như
quần áo bộ đội. Không tươi như quần áo công an bây giờ. Khó tả. Dân Hà Nội thời
tây cứ trông mặt đặt tên, gọi là màu cứt ngựa. Đúng nhất, hay nhất. Ai cũng
hiểu.
Một dạo,
thanh niên Hà Nội đua nhau cắt tóc ngắn. Mốt húi cua (court). Mái tóc chỉ còn
như cái móng chân (sabot) ngựa. Gọi là đầu móng ngựa.
Vào
khoảng những năm 1960, Sài Gòn có mốt tóc đuôi ngựa (queue de cheval). Các cô
cột mớ tóc thề thành cái đuôi ngựa con con. Nhún nhảy, rung rinh… Ô mê ly, mê
ly đời ta !
Bên cạnh
ngựa thần thoại, ngựa của tín ngưỡng dân gian hay ngựa của đời sống hàng ngày,
phải kể thêm mấy con ngựa của văn học. Mỗi con một số phận.
Có con
mang vẻ đẹp oai hùng :
- Áo
chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa
chàng sắc trắng như là tuyết in (Chinh phụ ngâm)
Có con
đồng loã với chủ, làm chuyện lén lút :
- Cùng
nhau lẻn bước xuống lầu
Song
song ngựa trước ngựa sau một đoàn (Kiều)
Có con
hay tự hào, tự tôn :
Ớ !
nầy, nầy, tao bảo chúng bay
Đố mặt
ai dài bằng mặt ngựa? (Lục súc tranh công)
Ngựa khoe
cái mặt dài thòng với đám trâu, chó, dê, gà, lợn cùng hội cùng thuyền. Không
biết rằng dưới con mắt của người ngoài thì mặt ngựa… thấy mà phát khiếp!
Người
nách thước, kẻ tay đao
Đầu
trâu mặt ngựa ào ào như sôi (Kiều)
(Đầu trâu
mặt ngựa là bọn quỷ sứ dưới địa ngục. Nghĩa đen chỉ bọn hung ác vô lương tâm).
Ngược
lại, có con mang mặc cảm tự ti. Tự hạ thấp mình một cách hơi quá đáng.
Tâu
rằng: «Hổ phận ngu si,
Đem
lòng khuyển mã đền nghì bể sông» (Nhị độ mai)
(Khuyển
mã là chó và ngựa. Hai giống vật có nghĩa, mến chủ).
Tái
sinh chưa dứt hương thề
Làm
thân trâu ngựa đền nghì trúc mai (Kiều)
(Theo
thuyết luân hồi của đạo Phật, người nào lúc sống mắc nợ ai mà không trả, thì
chết rồi, đầu thai lại làm thân trâu ngựa để trả cho hết nợ).
Có con xả
thân vì đại nghĩa :
- Năm
1422, Trẫm (Lê Lợi) thu binh trở về núi Chí Linh, quân sĩ tuyệt lương hơn hai
tháng, chỉ đào rễ cây, hái rau và măng để ăn đỡ đói mà thôi. Trẫm làm thịt bốn
thớt voi và cả ngựa của mình cưỡi để nuôi quân sĩ, thế mà thỉnh thoảng vẫn có
kẻ bỏ trốn … (Lam Sơn thực lục).
Có Con
ngựa già của chúa Trịnh (Phùng Cung, 1956) chết thảm thương.
Ngoài ra,
bên lề văn học còn có một con… có vấn đề. Thật không ? Ngựa cũng có vấn đề à?
Ta có
thành ngữ Thẳng ruột ngựa. Ngắn gọn nhưng… khó hiểu. Chỉ có 3 từ mà còn than
khó hiểu à? Chịu khó lật sách ra…
Loay hoay
tra tìm trong đống thơ văn cổ của Tàu, của ta thì không thấy danh ngôn, điển
tích nào có thành ngữ này.
- Tự vị
Huỳnh Tịnh Của (1895), từ điển Génibrel (1898) không có Thẳng ruột ngựa.
- Tục ngữ
phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1928), Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực -
Lương Văn Đang (1978) có Thẳng như ruột ngựa.
- Việt
Nam tự điển của hội Khai Trí Tiến Đức (1931) lại có Ngay ruột ngựa.
- Từ điển
tiếng Việt của Hoàng Phê (1988), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của Nguyễn
Lân (1989) có Thẳng ruột ngựa.
Thành ngữ
Thẳng ruột ngựa và các biến thể được giải nghĩa là: Nghĩ thế nào thì nói ra như
thế, không giấu giếm, không nể nang. Cởi mở và thẳng thắn. Tính tình thẳng thắn,
bộc trực.
Nói gọn
lại, Thẳng ruột ngựa nghĩa là thẳng thắn, nói thẳng.
Thế
nhưng, ai cũng biết rằng ruột người, ruột chó, ruột gà, ruột bò hay ruột ngựa,
ruột nào cũng… không thẳng. Bộ ruột, bộ đồ lòng nào cũng được sắp xếp lòng
vòng, uốn éo trong bụng con vật, con người.
Chúng ta
có thể loại bỏ hai câu Thẳng như ruột ngựa và Tính thẳng đuột như ruột ngựa
(Hoàng Phê, thí dụ của từ Thẳng đuột) vì thẳng như cái không thẳng là một điều
chưa ai chứng minh được. Các tác giả đã chép thừa chữ như.
Còn lại
hai thành ngữ có nghĩa giống nhau là Thẳng ruột ngựa và Ngay ruột ngựa,
Xin bàn
về câu Thẳng ruột ngựa.
Từ trước
đến nay, người ta thường hiểu câu nói được chia thành hai phần : Thẳng / ruột
ngựa. Phân chia như vậy vừa đúng ngữ pháp tiếng Việt vừa dễ hiểu. Chỉ phiền một
điều là… thẳng như cái không thẳng. Một nghịch lí khó chứng minh!
Chỉ còn
một cách chia khác là Thẳng ruột / ngựa.
- Chia
cắt kiểu gì ngộ nghĩnh vậy? Ruột ngựa bị chia hai, chẳng có nghĩa gì! Thẳng
ruột nghe muốn… lộn ruột. Ngựa đứng một mình lơ láo vô duyên ! Thẳng ruột /
ngựa hoàn toàn không có… bản sắc Việt Nam!
- Dạ,
đúng vậy. Thẳng ruột ngựa không phải là tiếng Việt của người Việt !
1) Thẳng
ruột là dịch từ chữ Hán Trực trường.
Trực
trường nghĩa là : Ruột gan ngay thẳng. Tên một chứng bệnh ăn vào thì đi tả ra
ngay, tuồng như đại trường thẳng tuột, nên không giữ được đồ ăn (Từ điển Đào
Duy Anh).
Thực tế
thì không có ruột người hay ruột súc vật nào thẳng cả. Vì vậy, Thẳng ruột chỉ
được dùng theo nghĩa bóng. Đào Duy Anh cũng nói rõ là tuồng như đại trường
thẳng tuột.
Thẳng
ruột (Tự điển Khai Trí Tiến Đức gọi là Ngay ruột) nghĩa bóng là ruột gan ngay
thẳng hay lòng dạ ngay thẳng. Trong bụng nghĩ thế nào thì nói thẳng ra như thế,
không giấu giếm. Ruột gan, lòng dạ được dùng để chỉ tâm tính con người. Ruột
gan, lòng dạ, tâm tính không đặt ra vấn đề thẳng như.
Mấy cách
giải nghĩa của các học giả còn thiếu sót. Vô tình hay cố ý các học giả chỉ giải
nghĩa hai từ Thẳng ruột và đã bỏ rơi mất từ ngựa.
2) Ngựa
của thành ngữ Thẳng ruột ngựa là… ngựa Tây, ngựa thực dân. Ngựa này không biết
kéo xe, không ham chạy đua. Ngựa này chỉ để cưỡi chơi trong phòng.
Tiếng
Pháp phân biệt ngựa đực (cheval), ngựa cái (jument). Ngựa cái (jument) được văn
chương gọi là cavale (gốc tiếng Ý là cavalla). Cavalla (giống cái) và Cavallo
(giống đực) của tiếng Ý còn đẻ ra mấy từ của tiếng Pháp như cavalerie (kị
binh), cavalier (kị sĩ), cavaleur (mấy ông đi tán gái), cavalière (được Việt
hoá thành ca-ve, gái nhảy) v.v.
Vòng vo
một hồi mới thấy ngựa (cái) có dây mơ rễ má với gái nhảy.
Mấy em
ca-ve, nhảy trên sàn không đủ sống, phải nhảy cả lên giường. Thế là… ca-ve bị
biến dạng, trở thành gái điếm. Từ đó, nghĩa là từ ngày thực dân Pháp cai trị
dân ta, ngựa (tiếng Việt không phân biệt ngựa đực hay ngựa cái) được dùng để ám
chỉ bọn me tây, đĩ tây (Nguyễn Khuyến gọi là Tây kĩ). Chẳng bao lâu ngựa của
tây chạy cả vào làng xóm bình dân của ta. Cuối thế kỉ XIX ngựa đủng đỉnh đi vào
sách vở.
Tự vị
Huỳnh Tịnh Của có câu Thua ngựa một cái đuôi nghĩa là dâm dục quá (tiếng mắng).
Từ điển
Génibrel có Nết ngựa : ám chỉ người đàn bà lăng loàn, sa đoạ (de moeurs
légères, débauchée). Đĩ ngựa : đàn bà thô lỗ, hạ cấp (poissarde).
Các bà
thời thượng trong Nam
bắt đầu lớn tiếng chửi nhau là đồ ngựa, hay đĩ ngựa.
Năm 1931,
Nguyễn Công Hoan viết Ngựa người và người ngựa, kể chuyện đêm giao thừa, anh
phu xe tay bị cô gái điếm lừa.
Ngựa
người ám chỉ cô gái điếm. Người ngựa (homme-cheval) là anh phu kéo xe tay. Hai
loại ngựa đặc sản của thời Pháp thuộc.
Rốt cuộc,
Thẳng ruột ngựa nghĩa là lòng dạ ngay thẳng của gái điếm, hay là nói thẳng, nói
thật như gái điếm.
- Trời
đất quỷ thần ơi ! Đĩ điếm cũng nói thẳng, nói thật sao ?
- Còn lâu
! Thẳng ruột ngựa phải được « hiểu ngầm » theo một cách khác !
- Cách
nào ? Đính chánh lẹ lên.
Trước khi
trả lời, đề nghị được lạc đề chút xíu.
Người xưa
có câu Thật thà lái trâu và Thật thà lái buôn. Ai cũng biết rằng lái buôn, nhất
là lái trâu, đều nói điêu, nói láo, lừa dối khách hàng để kiếm lợi. Không có
lái trâu hay lái buôn thật thà. Thật thà lái trâu hay Thật thà lái buôn là một
cách nói châm biếm, hài hước, tương tự như Vè nói ngược :
Bong bóng
thì chìm/ Gỗ lim thì nổi/ Đào ao bằng chổi/ Quét nhà bằng mai…
Bao giờ
cho đến tháng ba/ Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng…
Ai không
thích « giễu dở » thì nói : Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng
dâu mẹ chồng.
Người xưa
quan niệm rằng gái điếm cũng gian dối như lái buôn. Không có gái điếm ngay
thật.
Nghe các
em « giãi bày tâm sự » thì tình cảnh em nào cũng đáng thương. Cha chết, mẹ bịnh,
một lũ em thơ. Phải bỏ nhà, bỏ quê, lên tỉnh kiếm sống, gởi tiền về nuôi gia
đình. Em mới « đi » được một tuần. May sao bữa nay gặp được anh hào hoa phong
nhã…
Anh nghe
mà muốn rớt nước mắt… cá sấu.
Thẳng
ruột ngựa muốn khuyên mấy ông hơi bị bay bướm, lang bang phải coi chừng « ruột
gan ngay thẳng… của ca-ve ». Chẳng khác gì người miền Nam ngày trước
khuyên nhau đừng tin lời hứa cuội của mấy ông bự hét ra lửa mửa ra khói.
Gái điếm
lòng dạ không ngay thẳng. Cuội không giữ lời hứa. Lái buôn không thật thà.
Thành ngữ Thẳng ruột ngựa phải được hiểu ngược, hiểu theo lối nói châm biếm.
Thẳng
ruột ngựa là kết quả chồng chéo của ba nền văn hoá Tàu, Tây và Ta. Ý nghĩa
quanh co chứ không thẳng đuột như người ta thường lầm tưởng, hiểu sai.
- Tôi bấy
giờ còn trẻ, tính bồng bột, trả lời thẳng như ruột ngựa . Tôi không bị hạn gì
cả. Đế quốc bắt tôi vì tôi làm cộng sản (Nhiều tác giả, Nhân dân ta rất anh
hùng) (*).
- Anh
Tịch phải năn nỉ mãi. Cũng bởi Út hay nói lô la thẳng ruột ngựa nên anh sợ
(Nguyễn Thi, Người mẹ cầm súng) (*).
Nhà văn
muốn khen anh cán bộ và cô Út, nhưng e rằng có người hiểu là anh cán bộ và cô
Út đang bị chê.
Nói thẳng
nhưng đừng nói… thẳng ruột ngựa!
Rắc rối
quá! Nói thẳng, nói thật… khó nói quá!
Nguyễn
Dư
(Lyon, Tết con Ngựa 2014)
(*)
theo Thành ngữ tiếng Việt của Nguyễn Lực - Lương Văn Đang.
Nguồn: RFI Việt ngữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét