"Lợi ích nhóm" và chủ nghĩa tư bản thân hữu - cảnh báo nguy cơ
Lợi ích chính đáng (của một người, một nhóm) là lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, góp phần và bổ trợ cho lợi ích chung; không mâu thuẫn, không gây thiệt hại cho lợi ích chung. Lợi ích chính đáng luôn là mục tiêu và động lực đối với hoạt động của con người, cần được tôn trọng, bảo vệ và khuyến khích.
Quên điều
này, không quan tâm đến lợi ích chính đáng của con người, ngăn cản các lợi ích
chính đáng ấy, thì sự lãnh đạo và quản lý xã hội không thể thành công, trước
sau cũng nhất định thất bại.
Ảnh minh họa. (Nguồn:
tuyengiao.vn)
Ngược lại,
“lợi ích nhóm” (theo nghĩa tiêu cực) thì mâu thuẫn với lợi ích chung của quốc
gia, dân tộc; gây hại cho lợi ích chung, cho cộng đồng, làm suy yếu và gây tổn
thất nghiêm trọng đối với lợi ích chung. “Lợi ích nhóm” là nguyên nhân trực tiếp
dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm của các “nhóm lợi ích” là
có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng phân chia lợi ích, giữa
những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong nhà nước và trong
Đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền lực chuyển hóa
thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ có tiền.
Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn. Đồng tiền
cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã hội.
Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết
hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận
theo hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những
doanh nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ
kéo theo và song hành với tham vọng quyền lực cùng với tham vọng tiền bạc.
Ở nước ta,
trong lãnh đạo, người đầu tiên công khai hóa và nêu lên sự cần thiết phải đấu
tranh với “lợi ích nhóm” là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí đã phát biểu
tại Hội nghị Trung ương 3 (khóa XI), và sau đồng chí, một vài đồng chí lãnh đạo
khác của Đảng và Nhà nước cũng có nói đến, mặc dù chỉ mới thoáng qua và nhìn
chung, chưa có chỉ đạo gì quyết liệt trong việc ngăn ngừa, phòng chống “lợi ích
nhóm”. Trong giới khoa học của Việt Nam đã có một số nghiên cứu, nhưng chưa nhiều,
và mới ở dạng lý thuyết chung, chưa gắn với thực tế tình hình nước ta. Các nhà
nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều tài liệu nghiên cứu vấn đề này, gắn với
quá trình phát triển của một số quốc gia. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa
XI của Đảng Cộng sản Việt Nam về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã xác định nhiệm vụ quan trọng phải đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.
Hiện nay, “lợi
ích nhóm” và hoạt động của “nhóm lợi ích” ở nước ta đã và đang diễn ra ở hầu hết
các lĩnh vực quan trọng. Đó là trong quản lý doanh nghiệp nhà nước, quản lý dự
án đầu tư, nhất là đầu tư công; trong quản lý ngân sách, thuế, quản lý ngân
hàng – tín dụng; trong quản lý các nguồn vốn và chương trình đầu tư về xã hội,
trong quản lý tài sản, đất đai, bất động sản, tài nguyên khoáng sản, xuất nhập
khẩu; trong công tác cán bộ, quản lý biên chế; trong quản lý các loại cấp giấy
phép; kể cả trong các vụ án, trong tham mưu về chủ trương, chính sách và trong
điều hành. Đi sâu vào nghiên cứu các vụ tiêu cực, tham nhũng có tổ chức, các vụ
việc mà dư luận có nhiều ý kiến thì sẽ có nhiều thông tin cụ thể về tình hình
“lợi ích nhóm” ở Việt Nam. Tức là tình hình xấu đã lan rộng, khá phổ biến và
khá ngang nhiên, nghiêm trọng đến mức báo động.
“Lợi ích
nhóm” và “nhóm lợi ích” có tác hại gì? Trước nhất là nó làm cho đất nước bị tổn
thất các nguồn lực và giảm hiệu quả đầu tư, bị kìm hãm không thể phát triển
nhanh, thậm chí không thể phát triển bình thường, mất sức sống, nền kinh tế sẽ
bị khiếm khuyết, dị tật, kinh tế “ngầm”, thị trường “ảo”, chụp giật, hoang dã,
khống chế và “thanh toán” lẫn nhau để giành độc quyền, làm hỏng môi trường phát
triển lành mạnh và bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp. Hầu hết các nước bị
“bẫy” thu nhập trung bình kéo dài nhiều thập kỷ, thậm chí kéo dài hàng thế kỷ,
loay hoay mãi, lùng nhùng mãi, không làm sao thoát ra được để trở thành một quốc
gia phát triển, là do “lợi ích nhóm” – nguyên nhân trực tiếp và hàng đầu. Với sự
chi phối của các “nhóm lợi ích”, nguồn lực quốc gia bị phân bổ và sử dụng không
vì lợi ích chung của quốc gia, mà nhằm hướng phục vụ cho “lợi ích nhóm”; việc bố
trí đầu tư, sắp xếp dự án và kể cả ban hành chính sách, điều hành xử lý công việc
cũng vậy.
Nước ta sau
mấy chục năm công nghiệp hóa, đến nay năng suất lao động xã hội vẫn quá thấp,
vào loại thấp nhất khu vực Đông Á, hiệu quả đầu tư rất kém, nợ nần nhiều mà
chưa rõ trả bằng cách nào, khi mà hiệu quả đầu tư (sử dụng nguồn vay ấy) quá
kém; thu nhập rất thấp, sản phẩm công nghiệp xuất khẩu hầu như không có, các
chương trình nội địa hóa không thành công, chủ yếu là làm thuê và cho thuê mặt
bằng, nền kinh tế Việt Nam đang rơi vào “bẫy” thu nhập trung bình thấp. Nhìn lại
nguyên nhân các nước bị “bẫy” thu nhập trung bình và nhìn lại tình hình nền
kinh tế của ta thì đáng lo ngại.
Hậu quả thứ
hai do “nhóm lợi ích” gây ra là nhất định sẽ chệch hướng khỏi mục tiêu xã hội
chủ nghĩa chân chính (và cũng xa lạ với chủ nghĩa tư bản hiện đại), đất nước đi
theo một con đường khác, sang CNTB thân hữu, đó là con đường không có tiền đồ
và nguy hiểm, không có tự do và dân chủ (vì bị nhóm lợi ích độc quyền về kinh tế
và chính trị thâu tóm, lũng đoạn), để lại hậu quả lâu dài mà dân tộc phải gánh
chịu. Chúng ta mong muốn xây dựng một xã hội trên nền tảng của các giá trị nhân
cách thì “nhóm lợi ích” lại thúc đẩy đồng tiền cộng với quyền lực chiếm địa vị
thống trị. Thực chất “nhóm lợi ích” là đồng tiền (tư bản) chi phối quyền lực,
trực tiếp tham gia giành và chiếm giữ quyền lực, làm cho quyền lực không còn là
của nhân dân, cũng có nghĩa là chệch khỏi mục tiêu XHCN (chân chính). “Lợi ích
nhóm” và “nhóm lợi ích” có từ rất sớm, ít nhất là từ buổi đầu của thời kỳ phong
kiến; nhưng sang thời kỳ TBCN thì nó phát triển và diễn biến phức tạp hơn, kể cả
trình độ, quy mô và tính chất. Trong Chủ nghĩa tư bản “hoang dã”, “mông muội”,
các “nhóm lợi ích” hoạt động phổ biến, công khai, tích lũy và tập trung tư bản
bằng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực và giết người.
Nhân đây,
trước khi nói đến hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra, xin nói rõ hơn về
CNTB thân hữu. Suốt mấy trăm năm nay, qua quá trình cạnh tranh, qua đấu tranh
xã hội, chịu sự tác động của các quy luật khách quan về kinh tế và xã hội, CNTB
buộc phải liên tục điều chỉnh, nhờ vậy mà tiến bộ dần. Ngày nay CNTB hiện đại
đã có những tiến bộ đáng ghi nhận; họ đã tạo ra nhiều thành tựu và một số nước
phát triển cao, tính chất xã hội hóa cao hơn, đang dần dần từng bước tạo ra các
nhân tố mới của xã hội tương lai (XHCN). Đồng thời với quá trình tiến hóa tự
nhiên ấy, trong thực tiễn thế giới tư bản còn xuất hiện một khuynh hướng khác,
một khuynh hướng không lành mạnh, không bình thường, một khuynh hướng tha hóa,
đó là CNTB thân hữu, một loại hình nguy hại cho sự phát triển của các quốc gia.
Nước nào rơi vào “CNTB thân hữu” thì không ngóc đầu lên được. CNTB thân hữu thực
chất là sự bành trướng, biến dạng, biến tướng, sự thoái hóa cao độ của “nhóm lợi
ích” gây ra. Đây là một loại hình rất lạc hậu, khác xa so với CNTB hiện đại
(CNTB hiện đại cũng có nhiều mặt tiến bộ, mà chúng ta cần nghiên cứu để học tập
kinh nghiệm của họ) và tất nhiên là càng xa lạ với CNXH văn minh.
CNTB thân hữu
còn có các cách gọi khác nhau, là “CNTB lợi ích”, “CNTB bè phái”, “CNTB bè
cánh”, “CNTB lũng đoạn”… CNTB thân hữu không phải là một giai đoạn của CNTB, mà
là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của CNTB. Đây là loại hình
“phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế về mối quan hệ với những
người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính cho cá nhân và đơn vị mình.
Các doanh nghiệp này tập trung đầu tư vào “quan hệ”, vào “quan chức” để từ đó
mà dùng quyền lực tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Đặc trưng của “CNTB thân hữu” là
có sự cấu kết, xâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và nhóm đặc quyền
chính trị, người kinh doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có quyền lực
cũng tham gia “kinh doanh”, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau bóc lột “mềm”
toàn xã hội, bóc lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài chính, của cải và
thâu tóm quyền lực chính trị, biến bộ máy nhà nước thành công cụ của một nhóm
người (nhân danh nhà nước và đảng cầm quyền) thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp
với độc quyền chính trị. Nói họ thực hiện bóc lột “mềm” là vì không có hình thức
tổ chức sản xuất – kinh doanh cụ thể để trực tiếp bóc lột giá trị thặng dư của
lao động, sự bóc lột của họ tinh vi hơn, nhưng tai hại hơn, gây hậu quả rất
nghiêm trọng. Sự bóc lột ấy thực hiện thông qua các dự án, các chương trình đầu
tư; thông qua các cơ chế, chính sách (không phục vụ cho toàn xã hội mà phục vụ
cho một nhóm người) và thông qua cách điều hành, cách quản lý mập mờ, không
minh bạch, gây tiêu cực, tham nhũng… Họ thu lợi thông qua các công ty “sân
sau”, công ty con, công ty cháu, công ty nhánh của gia đình, của “cánh hữu”. Nó
ra đời trong (và gắn với) CNTB “man rợ”, CNTB “dã man”, chứ không phải CNTB văn
minh.
Rất đáng lưu
ý là, “CNTB thân hữu” không chỉ có trong xã hội tư bản (yếu kém và tha hóa) mà
còn có trong các xã hội khác, ở các nước mới bắt đầu vận hành nền kinh tế theo mô
hình kinh tế thị trường, khi mà ở đó “lợi ích nhóm”, “nhóm lợi ích”, “lợi ích
bè phái”, “tính thân hữu vì lợi ích” đang nổi lên và hoành hành; khi mà đảng cầm
quyền cùng nhà nước do nó lãnh đạo bị suy thoái về đạo đức, tham nhũng trở nên
phổ biến và pháp luật không được tuân thủ trong sự quản lý đất nước, quản lý xã
hội (tức là trình độ quản trị quốc gia yếu kém). Thực tiễn thế giới cho thấy,
CNTB thân hữu kìm hãm sự phát triển của quốc gia, làm cho đất nước rơi vào “bẫy”
thu nhập trung bình hàng thế kỷ không ra được, làm băng hoại đạo đức xã hội (do
lệch chuẩn giá trị); làm méo mó, biến dạng các chủ trương đường lối; gây nên
các khuyết tật của nền kinh tế và của xã hội, để hậu quả lâu dài. CNTB thân hữu
xuất phát từ các nguyên nhân, nguồn gốc: “Lợi ích nhóm” tiêu cực, các dạng
Maphia, tham nhũng có tổ chức, sự suy thoái đạo đức của cán bộ có chức quyền,
không có cơ chế kiểm soát quyền lực, để quyền lực tha hóa và không có cơ chế tốt
để dân làm chủ, để nhân dân có quyền lực thật sự, trình độ và năng lực quản trị
quốc gia yếu kém, luật pháp còn nhiều kẽ hở và việc chấp hành pháp luật không
nghiêm, bảo kê, bao che và dung túng cho các sai phạm. Ở đâu và khi nào mà
“nhóm lợi ích” không bị ngăn chặn có hiệu lực, hiệu quả, mà để nó phát triển mạnh,
lan tràn, hoành hành, vai trò của nhà nước lành mạnh bị vô hiệu hóa, thì ở đó,
tất yếu sẽ kéo theo, CNTB thân hữu xuất hiện và tồn tại, không thể tránh được,
không thể khác được, dù có muốn hay không.
Lâu nay Đảng
ta đã nhiều lần lưu ý nguy cơ chệch hướng. Nếu chệch hướng thì sẽ chệch đi đâu?
Chắc không thể trở lại chế độ phong kiến, vì trình độ phát triển đã vượt qua.
Cũng không thể chệch sang CNTB phát triển văn minh, vì trình độ phát triển của
nước ta chưa đạt đến, và nếu vậy thì có ý kiến cho rằng cũng không đáng sợ, bởi
chúng ta sẽ gần hơn với CNXH. Khả năng lớn nhất, hiện hữu, và cũng đáng sợ nhất,
nguy hiểm nhất, là chệch hướng sang CNTB thân hữu, con đường nguy hại cho sự
phát triển của quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng nguy hại cho chế độ chính trị
xã hội.
Trở lại hậu
quả của “nhóm lợi ích”. Hậu quả thứ ba do “nhóm lợi ích” gây ra là sự suy đồi về
văn hóa, đạo đức xã hội, do hệ giá trị bị đảo lộn (đồng tiền và quyền lực chiếm
vị trí trung tâm và cao nhất, trong khi nhân cách bị đẩy sang bên cạnh và xuống
hàng thứ yếu) và do tha hóa quyền lực (tác nhân mạnh nhất). Việc phân hóa giàu
– nghèo sẽ ngày càng lớn, tạo ra bất bình đẳng và mâu thuẫn xã hội. Hỏng văn
hóa và gây ra mâu thuẫn xã hội thì hậu quả khôn lường, thâm sâu và lan tỏa rộng
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến nền tảng xã hội và
sức mạnh nội sinh của dân tộc.
Hậu quả thứ
tư do “nhóm lợi ích” gây ra là làm lẫn lộn thật - giả, đúng - sai, khác nhau giữa
lời nói và việc làm, đường lối đúng không vào được cuộc sống…; làm mất lòng tin
của nhân dân đối với Đảng cầm quyền và đối với nhà nước, tức là làm hỏng nền tảng
chính trị, dẫn đến mất ổn định chính trị, mất sức mạnh của một quốc gia, và từ
đó các thế lực xâm lăng từ bên ngoài có thể lợi dụng thời cơ để xâm lấn, chèn
ép, dẫn đến nguy cơ mất độc lập, thậm chí là mất nước.
Hậu quả thứ
năm do “nhóm lợi ích” gây ra là chính sách sử dụng cán bộ méo mó, phát triển nạn
chạy chức chạy quyền, “buôn quan”, “buôn vua”, sắp xếp cán bộ trên cơ sở “quan
hệ, tiền tệ, hậu duệ”, chứ không phải sử dụng người có tài đức, làm hư hỏng đội
ngũ cán bộ; là sự phát triển, sự gia tăng các hoạt động bè phái, mất đoàn kết nội
bộ, phá vỡ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền, từ đó dẫn đến
Đảng cầm quyền mất vai trò lãnh đạo, tan rã hoặc bị “nhóm lợi ích” thâu tóm làm
thay đổi hoàn toàn về bản chất, không còn là Đảng phục vụ nhân dân, và nhà nước
cũng hư hỏng, biến chất, không còn là nhà nước của dân, mà thành bộ máy cai trị,
tham nhũng và bóc lột nhân dân, từ đó, nòng cốt chính trị đổ vỡ, bất ổn định
chính trị từ bên trong.
Tình hình
“nhóm lợi ích” ở Việt Nam đã đến mức độ nào? đang và sẽ đi về đâu? Như chúng ta
đã biết, trước đây, trong lịch sử nhiều lần các triều đại phong kiến Việt Nam
phải sụp đổ, kể cả có lúc phải chia cắt đất nước là do “nhóm lợi ích” gây nên.
Ngày nay, tuy chưa có các công trình nghiên cứu cấp quốc gia một cách thật đầy
đủ và khoa học về “lợi ích nhóm ở Việt Nam”, tuy nhiên, qua thông tin, qua dư
luận xã hội, qua nghiên cứu của một số chuyên gia và cảm nhận của nhiều người,
thì tình hình “lợi ích nhóm” đã khá nghiêm trọng, tương đối phổ biến, ở cấp nào
cũng có, cấp cao hơn thì bệnh nặng hơn, ở lĩnh vực nào cũng có, kể cả ở những
nơi mà xưa nay trong tiềm thức xã hội thường cho rằng đó là nơi luôn trang
nghiêm, trong sạch. “Lợi ích nhóm” cũng chính là một kiểu tham nhũng nghiêm trọng
nhất, tham nhũng có tổ chức. Mặc dù Đảng và nhà nước ta đã có nhiều cố gắng
trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, nhưng thực tế xã hội vẫn diễn
ra một tình hình rất đáng lo ngại là ở nước ta đang có nguy cơ chuyển biến dần
dần sang “CNTB thân hữu”, do hoạt động của “nhóm lợi ích” gây nên. Thậm chí có
ý kiến cho rằng nước ta đã rơi vào trong CNTB thân hữu rồi(?). Ở các nước, việc
quản lý nhà nước và việc điều hành kinh tế tách biệt rành mạch, và ở họ doanh
nghiệp nhà nước cũng ít hơn ta. Còn ở ta, với đặc điểm cơ quan nhà nước vừa quản
lý về mặt nhà nước, vừa trực tiếp điều hành kinh tế, doanh nghiệp nhà nước nhiều,
lại yếu kém trong quản lý, không ít trường hợp đằng sau cái vỏ doanh nghiệp nhà
nước là tư nhân núp bóng, vì vậy, đề phòng “lợi ích nhóm” ở Việt Nam còn phức tạp
hơn các nước, nếu không đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả. Đây là nguy cơ lớn nhất
đang hiện hữu dần, đe dọa sự phát triển lành mạnh của đất nước và sự tồn vong của
chế độ theo định hướng XHCN (lành mạnh). Nguy cơ này bao trùm, đáng lo hơn bất
kỳ sự đe dọa nào, tác động chi phối chính, làm trầm trọng các nguy cơ khác, tạo
điều kiện cho các nguy cơ khác phát triển và gây tác hại. Đây là điểm lớn nhất,
cốt lõi nhất của cuộc đấu tranh về quan điểm lập trường; là trọng tâm trong chống
“tự diễn biến”. Nếu Đảng và Nhà nước ta không ngăn chặn được hoạt động của
“nhóm lợi ích”, để nó tiếp tục phát triển, dẫn đến lũng đoạn ngày càng lớn hơn
thì sự phát triển của đất nước bị nguy khốn và chế độ chính trị cũng biến chất,
cũng thay đổi theo chiều hướng xấu, chắc chắn không còn là con đường XHCN chân
chính nữa, mà sẽ là nơi phát triển CNTB thân hữu, mong muốn của hàng triệu đảng
viên cộng sản và nhân dân đã chiến đấu và hy sinh xương máu sẽ trở nên xa vời
và vô vọng, mong muốn thiết tha của Bác Hồ cũng không thực hiện được, Đảng chân
chính sẽ không còn và Nhà nước sẽ biến chất, dân tộc sẽ bị bóc lột, bị tước đoạt
quyền lực và tài sản của cải, chế độ xã hội sẽ là một chế độ không có dân chủ
và tự do, không có bình đẳng. Lúc này, hơn lúc nào hết, các cấp ủy và toàn Đảng
phải nhận thức rõ nguy cơ và quyết tâm bảo vệ quyền lợi dân tộc, thành quả cách
mạng và bảo vệ chính Đảng ta, không để Đảng bị “nhóm lợi ích” và CNTB thân hữu
thao túng, làm hư hỏng, biến chất, dẫn đến đổ vỡ.
Chống “lợi
ích nhóm” là công việc hết sức khó khăn, phức tạp, vì không rõ “chiến tuyến”,
thường ở trong trạng thái lẫn lộn trắng đen, trong nó có ta và trong ta có nó,
vừa là ta lại vừa là nó. Ngoài việc cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc tình hình
và nguy cơ, cần thảo luận rộng rãi trong Đảng và trên công luận; Đảng và cả hệ
thống chính trị phải kiên quyết đấu tranh chống “lợi ích nhóm”, coi đây là nhiệm
vụ trọng tâm, hết sức hệ trọng và cấp bách; tập thể lãnh đạo từ cấp cao nhất cần
có quyết tâm chính trị và thật sự gương mẫu trong việc đấu tranh chống “lợi ích
nhóm”, sử dụng tất cả các biện pháp có thể; khẩn trương nghiên cứu ban hành bổ
sung, điều chỉnh các cơ chế kiểm soát quyền lực (bằng quyền lực nhà nước, bằng
quyền lực của nhân dân và bằng công luận); cơ chế thực thi dân chủ rộng rãi,
minh bạch thông tin và qui định rõ trách nhiệm giải trình, điều trần; tạo hành
lang pháp lý chặt chẽ cho báo chí vào cuộc, cho nhân dân thực hiện quyền tham
chính; đổi mới căn bản công tác cán bộ, thực hiện tranh cử trước nhân dân đối với
các chức danh bầu cử và thi tuyển công khai đối với các chức vụ quản lý, đồng
thời thực hiện cơ chế giám sát hoạt động, kết quả công việc, thi hành việc bãi
miễn và thay đổi vị trí công tác của cán bộ khi xét thấy không có lợi cho cuộc
đấu tranh chống “lợi ích nhóm”./.
Theo TS. Vũ Ngọc Hoàng
Ủy viên Trung ương Đảng,
Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương
Báo Đảng Cộng sản Việt
Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét