Tự hào nhìn lại những Di sản của Việt Nam được UNESCO vinh danh
(Dân trí) - Ở các hạng mục như Di sản thiên nhiên, Di sản văn
hóa vật thể - phi vật thể, Di sản tư liệu của nhân loại do UNESCO bình
chọn… Việt Nam đã có nhiều công trình được vinh danh.
>> Đại diện UNESCO: “Tôi ước có tuổi thơ lớn lên ở Nam Bộ”
>> Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ thành di sản phi vật thể của nhân loại
Di sản thiên nhiên thế giới
Vịnh Hạ Long:
Ngày 17/12/1994, UNESCO đã đưa vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên
nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng về mặt thẩm mĩ. Ngày 2/12/2000,
UNESCO tiếp tục công nhận vịnh Hạ Long là di sản thiên nhiên thế giới
lần thứ 2 theo tiêu chuẩn về giá trị địa chất địa mạo.
Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng:
Năm 2003, UNESCO công nhận Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là di sản
thiên nhiên thế giới vì đạt tiêu chuẩn về giá trị địa chất địa mạo, “là
ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của lịch sử trái đất”.
Di sản văn hóa thế giới
Quần thể di tích Cố đô Huế:
Tháng12/1993, UNESCO đã công nhận quần thể di tích Cố đô Huế là di sản
văn hoá thế giới, “là biểu trưng cho sự nổi bật về uy quyền của một đế
chế phong kiến từng tồn tại tại Việt Nam”, “là một điển hình nổi bật của
kinh đô phong kiến phương Đông”.
Phố cổ Hội An:
Sự giao thoa văn hóa đã làm nên một Hội An hấp dẫn, thu hút được nhiều
du khách trong và ngoài nước. Ngày 4/12/1999, UNESCO đã công nhận đô thị
cổ Hội An là di sản văn hóa thế giới, dựa trên hai tiêu chí: Hội An là
di sản nổi bật của sự kết hợp các nền văn hóa qua các thời kỳ tại một
thương cảng quốc tế và Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị
châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo.
Thánh địa Mỹ Sơn:
Ngày 1/12/1999, UNESCO đã công nhận Thánh địa Mỹ Sơn là di sản văn hóa
thế giới với hai tiêu chí: “là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hóa”,
“là bằng chứng duy nhất của một nền văn minh Châu Á đã biến mất”.
Hoàng thành Thăng Long:
Ngày 31/7/2010, UNESCO công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long -
Hà Nội là di sản văn hóa thế giới vì mang những giá trị nhân văn, điêu
khắc, kiến trúc, xây dựng, quy hoạch và cảnh quan… Đây là một trung tâm
quyền lực của Việt Nam, là minh chứng về sự tiến hóa của nền văn minh
dân tộc Việt Nam trong lịch sử phát triển của một nhà nước quân chủ ở
vùng Đông Nam Á và Đông Á.
Thành nhà Hồ:
Ngày 27/6/2011, UNESCO đã đưa di tích Thành nhà Hồ (Thanh Hóa) vào danh
mục di sản văn hóa Thế giới. “Kỹ thuật xây dựng các bức tường thành
bằng đá lớn, kỳ vĩ, đặc sắc chỉ có ở thành nhà Hồ. Đây được xem như một
hiện tượng đột biến vô tiền khoáng hậu
trong lịch sử xây dựng kiến trúc thành quách tại Việt Nam và trong khu
vực” - Đó là đánh giá của trung tâm bảo tồn di sản Thành nhà Hồ.
Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới
Nhã nhạc cung đình Huế:
Là một loại hình âm nhạc mang tính bác học của các triều đại quân chủ
trong xã hội Việt Nam suốt hơn 10 thế kỷ, nhã nhạc cung đình Huế ra đời
nhằm tạo sự trang trọng cho các cuộc tế, lễ của cung đình như Tế Giao,
Tế miếu, Lễ Đại triều, Thường triều... Tinh hoa này được cô đọng lại
dưới triều Nguyễn, giúp Huế càng được khẳng định hơn với vai trò một
trung tâm văn hóa tiêu biểu của dân tộc. Với tất cả giá trị lịch sử ấy,
ngày 7/11/2003, nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO đưa vào danh mục
Kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Huế song hành một lúc
hai di sản văn hóa thế giới - vật thể và phi vật thể - đã đánh dấu một
bước ngoặt về giá trị văn hóa của vùng đất này.
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên:
Di sản này được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể
của nhân loại vào ngày 15/11/2005. Tồn tại trên mảnh đất Tây Nguyên
hùng vĩ đã hàng ngàn đời nay, nghệ thuật cồng chiêng ở đây đã phát triển
đến một trình độ cao. Cồng chiêng Tây Nguyên rất đa dạng, phong phú, đã
đi vào sử thi Tây Nguyên để khẳng định tính trường tồn của loại nhạc cụ
này.
Dân ca quan họ:
Ngày 30/9/2009, quan họ đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể
và truyền khẩu của nhân loại. Quan họ Kinh Bắc được Hội đồng chuyên môn
của UNESCO đánh giá cao về giá trị văn hóa, đặc biệt về tập quán xã
hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách ứng xử văn hóa, bài
bản, ngôn từ và trang phục.
Ca trù:
Ngày 1/10/2009, ca trù được công nhận là di sản phi vật thể và truyền
khẩu của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản văn hóa thế giới
có vùng ảnh hưởng lớn nhất ở Việt Nam, có phạm vi tới 15 tỉnh, thành ở
phía Bắc.
Hội Gióng:
UNESCO đã chính thức công nhận Hội Gióng là Di sản văn hóa phi vật thể
của nhân loại vào ngày 16/11/2010. Điểm thuyết phục để Hội Gióng được
UNESCO công nhận chính là tính nhân dân sâu sắc của lễ hội này. Hội
Gióng là lễ hội thuộc về nhân dân. Hàng trăm năm nay, người dân đã góp
công góp của để tổ chức ngày hội của mình và giữ nguyên vẹn những nghi
lễ do cha ông truyền lại. Hiện nay còn hơn 10 Hội Gióng thuộc địa bàn Hà
Nội và các vùng lân cận.
Hát xoan:
Ngày 24/11/2011, UNESCO đã công nhận hát xoan - Phú Thọ là Di sản văn
hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại với những giá trị cộng đồng
trong việc sáng tạo và truyền dạy từ đời này qua đời khác. Hát xoan là
loại hình dân ca lễ nghi phong tục hát thờ thần với hình thức nghệ thuật
đa yếu tố, gồm có ca - vũ - nhạc, thường được biểu diễn vào dịp đầu
xuân, phổ biến ở vùng đất tổ Hùng Vương - Phú Thọ, một tỉnh trung du
Việt Nam. Hát xoan còn được gọi là khúc môn đình (hát cửa đình), tương
truyền có từ thời các vua Hùng.
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương:
Ngày 6/12/2012, UNESCO công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú
Thọ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại với những yếu tố thuộc
đời sống tâm linh của người Việt Nam đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay,
thể hiện nền tảng tinh thần đại đoàn kết dân tộc và gắn kết cộng đồng.
Tính độc đáo của tín ngưỡng này thể hiện rất rõ ở yếu tố thờ Hùng Vương
chính là thờ Quốc tổ. Đây là hiện tượng văn hóa không phải dân tộc nào
cũng có.
Đờn ca tài tử:
Ngày 5/12/2013, UNESCO công nhận nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ là di
sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. UNESCO đánh giá nghệ thuật đờn ca
tài tử Nam Bộ đáp ứng được các tiêu chí: Được trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác; liên tục được tái tạo thông qua trao đổi văn hóa, thể
hiện sự hòa hợp văn hóa và tôn trọng văn hóa riêng của các cộng đồng,
dân tộc.
Di sản tư liệu thế giới
Mộc bản triều Nguyễn:
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam
được UNESCO công nhận ngày 31/7/2009. Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.618
tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các
sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19-20. Nét chữ khắc trên tài liệu mộc bản
rất tinh xảo và sắc nét. Ðây là những tài liệu có giá trị, phục vụ cho
việc nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt Nam thời cận đại.
Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám:
Với giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, đầu tháng 3/2010, 82 tấm bia
tiến sĩ của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu -
Quốc Tử Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế
giới.
Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm:
Ngày 16/5/2012, Ủy ban UNESCO khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã chính
thức ghi danh Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (xã Trí Yên, huyện Yên Dũng,
tỉnh Bắc Giang) vào danh mục Di sản tư liệu ký ức thế giới khu vực Châu Á
- Thái Bình Dương. Chùa Vĩnh Nghiêm được mệnh danh là “Đại danh lam cổ
tự”, một trung tâm Phật giáo lớn nhất của thời Trần, một chốn tổ quan
trọng của 3 vị Trúc lâm tam tổ (Trần Nhân Tông - Pháp Loa - Huyền Quang)
từng trụ trì và mở trường thuyết pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét