Những vần thơ của các vị
tiên:
100 năm trước: Thương nòi
giống
Thần tiên giáng bút
Khảo cứu của Nguyễn
Xuân Diện
2006
2006
Trong các nghi lễ
của người Việt thời trước, có một không gian nghi lễ khá đặc biệt rất đáng để ý
là thiện
đàn. Ở đấy diễn ra một hình thức
sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo là giáng bút - một hiện tượng văn hoá
tâm linh có thực trong xã hội Việt Nam, tức là cầu Thánh - Thần - Tiên - Phật
cho mình những bài thơ, thông qua một người có năng lực đặc biệt. Song vì nhiều
lý do mà giới nghiên cứu đã coi đó là một vùng cấm và không dành cho nó một sự
quan tâm thích đáng, ngoại trừ hai học giả là Nguyễn Văn Huyên (Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam, 1944)
và Đào Duy Anh (Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm,
1989).
Giáng bút là hiện
tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán
truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm
hiện đang lưu trữ 254 cuốn thơ văn giáng bút, với hàng vạn bài thơ, bài văn.
Tài liệu có niên
đại sớm nhất là năm 1825 được in tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay là di
tích Việt Đông hội quán, số nhà 22 Hàng Buồm, Hà Nội. Về niên đại xuất hiện
nhiều bản giáng bút nhất là các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911.
Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm.
Minh họa trong sách của Nguyễn Văn Huyên.
Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm.
Bối
cảnh chính trị văn hoá xã hội Việt Nam thời Nguyễn
Học giả Việt Nam
đầu tiên quan tâm đến giáng bút có lẽ là Lê Quý Đôn. Trong khi đi sứ nhà Thanh
(Trung Quốc) ông đã quan tâm tìm hiểu, sưu tầm được sách âm chất văn chú. Năm
1839 Âm chất văn chú được khắc in
theo bản cũ do Lê Quý Đôn mang về từ Trung Quốc. Sách dày chừng 350 trang in.
Nhưng bản Âm chất văn chú in năm 1839
không phải là bản in giáng bút sớm nhất mà ta thấy được trong kho sách Hán Nôm.
Ngay từ năm 1825,
tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (Hà Nội) đã tổ chức khắc in bộ sách Quan Phu tử kinh huấn hợp khắc (AC.
408), 150 trang in. Sách này chép lời giáng bút của Quan Thánh đế quân (Quan
Phu tử, Quan Vân Trường).
Suốt nửa cuối thế
kỷ XIX, đã có nhiều Thiện đàn được mở ra ở hầu khắp các tỉnh ở Bắc bộ: Hà Nội,
Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Thái
Nguyên, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên,...
Bút đào của Vi Thiện Đàn (Hà Nội) |
Có tình hình ấy là
do bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Ví dụ như
khi các sĩ phu Hà thành lập ra hội Hướng Thiện, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan làm Hội
trưởng thì mục tiêu đặt ra là: Hướng mọi người làm việc thiện, xây dựng một lối
sống tốt đẹp, theo chuẩn mực của truyền thống. Về sau, hội Hướng Thiện mở mang
thêm các hoạt động văn hoá như: tu sửa tôn tạo di tích đền Ngọc Sơn...
Thực trạng kinh tế,
xã hội Việt Nam từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông
Nam Kỳ cho Pháp tuy đang trong giai đoạn xây dựng kiến thiết nhưng đã dần được
củng cố. Việt Nam
là một nước độc lập, thống nhất và phát triển có đường hướng. Triều đình Tự Đức
sau nhiều “khự nự” đã hoàn toàn bất lực trước sự lấn lướt của Thực dân Pháp và
sự “đe dọa” của văn minh phương Tây. Trong triều đình ấy, nội bộ cũng đã có sự
phân hóa, chia ra làm hai phái rõ rệt: Chủ chiến và chủ hòa. Vua Tự Đức thì ở
phái chủ hòa. Một quan chức trong triều là Dương Khuê dâng sớ đề nghị đánh
Pháp. Vua đã phê vào sớ: “ Bất thức thời vụ”, và đày ông đi sơn phòng, trông
nom việc khai khẩn ở miền sơn cước.
Chỉ sau khi Tự Đức
băng, thì phái chủ chiến trong đám quần thần mới dần trở nên chiếm ưu thế, bởi
được vua Hàm Nghi và một trọng thần quyền thế là Trương Đăng Quế làm hậu thuẫn.
Năm 1885 phong trào Cần Vương được phát động chính thức và phát triển sâu rộng
khắp Trung kỳ, Bắc kỳ.
Phong trào Cần
Vương đi vào suy thoái bằng sự thất bại
của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn do nhà sĩ phu khoa bảng Phan Đình Phùng làm thủ
lĩnh.
Từ sau năm 1897
khởi nghĩa Hương Sơn thất bại, nhiều nơi trong đất nước đã từng có những cuộc
khởi nghĩa hay nổi dậy lẻ tẻ. Đòi hỏi của lịch sử về cứu nước, giành lại giang
sơn tổ quốc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
Thơ văn yêu nước
thời kỳ này nhằm đến một quần chúng nhân dân đông đảo. Và để phù hợp với việc
kêu gọi lòng yêu nước và tự hào dân tộc, các hình thức diễn đạt quen thuộc với
đông đảo bình dân được lựa chọn. Thơ lục bát và song thất lục bát được ưa dùng.
Những lối nói ẩn dụ về nòi giống, tổ quốc, giang sơn ...giàu sức biểu cảm được
dùng phổ biến trong các lời văn giáng bút. Các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ
trong dân gian có lồng ghép thêm những nội dung mới, nhằm thức tỉnh long yêu
nước.
Trong các sinh hoạt
văn hoá, văn nghệ dân gian, thì kê đàn giáng bút là một hoạt động tín ngưỡng
đặc biệt. Ở đó con người giao tiếp với thế giới của Thánh - Thần - Tiên - Phật
qua một người có biệt năng. Người này sẽ chuyển các thông điệp bằng văn thơ có
nội dung khuyên bảo, răn dạy, kêu gọi của Thánh, Thần cho con người trên cõi
trần gian. Hơn nữa giáng bút lại là một hoạt động tín ngưỡng ngưng kết nhiều
thành tố đặc sắc của văn hoá dân gian như: thơ ca dân gian, múa dân gian, nghi thức
tín ngưỡng...Tham gia vào giáng bút là tham gia vào tín ngưỡng, tham gia vào
sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian nhằm tiếp xúc với một tiên giới trong tâm
tưởng.
Cũng chính vì hoạt
động giáng bút là một hoạt động mang tính tổng hợp như vậy nên đã thoả mãn được
nhiều giai tầng công chúng cho dù là các nhà khoa bảng, học hành đỗ đạt cao,
nhà nho ở nông thôn, cho đến tầng lớp tiểu thương nơi phố thị, nông dân chốn
quê mùa. Sức sống của giáng bút cũng ở đấy. Và sức sống của việc tuyên truyền
yêu nước cũng ở đấy. Nó nương vào tôn giáo, tín ngưỡng, nương vào công xã nông
thôn để hoạt động và thúc giục quần chúng.
Thực dân Pháp thực
sự hoang mang và bối rối khi phải xử trí với tình hình nở rộ của các Thiện đàn
và các hoạt đông giáng bút ở khắp nơi. Không tìm được chứng cớ khả dĩ kết tội,
đàn áp, thực dân Pháp đã mất ăn mất ngủ với các hoạt động nửa tôn giáo, nửa
cách mạng đang lan tràn và phát huy tác dụng và thanh thế ở khắp nơi.
Một Thiện đàn ở huyện Thanh Miện tỉnh Hưng Yên
Tại Văn Hiến đường,
xã Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng, Hà Tây), năm 1930 tay sai đã về tịch thu các ván in
và bộ sách Cổ kim truyền lục đã được
in ấn và đang lưu hành ở đây.
GS. Đào Duy Anh,
trong bài Tìm hiểu phong trào Thiện đàn
đối với cuộc vận động ái quốc - Kinh Đạo Nam dài 25 trang in trong tập hồi
ký Nhớ nghĩ chiều hôm (Nxb Trẻ, 1989) có cho biết :
"Ông Nguyễn
Ngọc Tỉnh kể lại rằng trong thời gian giáng bút và ấn hành bản kinh này thì Lý
trưởng và Phó lý xã Hạc Châu sợ liên luỵ nên đã báo cáo cho quan lại sở tạị.
Chính quyền thực dân giao cho Bùi Bằng Đoàn bấy giờ làm Tri phủ Xuân Trường điều
tra. Bùi Bằng Đoàn cho vợ có sai nha đi theo đến đàn để thử, viết một tờ sớ bỏ
vào phong bì kín. Hàng ngày khách thập phương qua lại để lễ và xin kinh rất
đông, nhiều người sang trọng, cho nên chẳng ai để ý đến đó là bà phủ Xuân
Trường. Theo lệ thì người đến lễ đặt phong bì kín lên bàn thờ, Thánh phải giáng
bút chỉ tên người ấy, có đúng thì người ta mới tin. Thánh bèn giáng bút cho
ngay một câu thơ rằng:
Côn dược thiên trùng thương hải ngoại;
Bằng Đoàn vạn lý tử tiêu gian.
Bằng Đoàn vạn lý tử tiêu gian.
Thế là chỉ rõ tên
Bùi Bằng Đoàn ra bằng một câu thơ, mà các nhà Nho học giỏi đều nhận là rất hay,
bình thường khó có người tức tịch làm ra được, huống chi người cầm kê đây là
người sức học cũng tầm thường.
Bùi Bằng Đoàn do đó
tin là có tiên thánh giáng bút thực, báo cáo lên tỉnh rằng đó là việc tôn giáo
thực chứ không phải là hoạt động chính trị như hương lý báo. Sau đó án sát Nam
Định là Mai Toàn Xuân cũng cho vợ đến lễ để đặt phong bì kín và thử như thế.
Bùi Bằng Đoàn là người Nho học có tiếng cho nên được giáng bút một câu thơ chữ.
Mai Toàn Xuân xuất thân là bồi Tây nên ít học, chỉ được giáng bút một câu thơ
Nôm, nhưng cũng vạch rõ cả ba chữ họ tên như vẽ ra:
Đầu cành Mai mới điểm hoa;
Non sông bốn bể đâu mà chẳng Xuân ?
Non sông bốn bể đâu mà chẳng Xuân ?
Sau đó tỉnh báo cáo
lên Thống sứ rằng đây chỉ là một hoạt động tôn giáo, không nên ngăn cấm. Vì thế
mà bản kinh in xong vào mùa Đông năm 1923 được phát hành ở Bắc kỳ, rồi sau đó được phát hành bằng quốc ngữ ở
Nam kỳ. Các mùa hè năm 1924, 1925, 1926 ông Nguyễn Ngọc Tỉnh đều được Đồng Lạc
Khuyến Thiện đàn ở Nam Định nời đến giảng kinh Đạo Namcho tín đồ của đàn ấy
nghe. Nhưng đến năm 1929, trong cuộc đàn áp dối với các đảng bí mật tiến hành ở
khắp bắc kỳ, chính quyền mới soát nhà mà tịch thu tất cả bản kinh còn lại và
các tấm ván in để huỷ đi và bắt đàn chủ là ông Nguyễn Đức Kinh và chủ bút là
ông Nguyễn Ngọc Tỉnh làm án giám".(Sđd tr.200-224).
Như vậy là, các
Thiện đàn trong suốt quá trình hoạt động của mình luôn gặp phải sự dò xét của
thực dân Pháp và quan lại phong kiến Nam triều. Có một thực tế là chính
nhờ vào hình thức giáng bút, như một hoạt động mê tín dị đoan, các bài hát bài
thơ yêu nước thương nòi và nặng lòng với văn hoá dân tộc đã được lưu truyền.
Các thành viên của các phong trào yêu nước đấu tranh cách mạng cũng nhờ đó mà
thoát khỏi sự rình rập và đàn áp của kẻ thù.
Thiện
đàn với cuộc vận động ái quốc
Giáng bút của Phù Đổng Thiên Vương |
Những năm đầu thế
kỷ này, trước tình hình bị giặc Pháp đàn áp nặng nề, một số cơ sở vận động yêu
nước tại Hà Nội và các đô thị phải chuyển về vùng nông thôn phụ cận. Một trong
những cơ sở có hoạt động mạnh là Văn Hiến đường ở làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện
Đan Phượng (Hà Tây). Văn Hiến đường hoàn thành vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1909),
là nơi thờ Thái uý Tô Hiến Thành và các vị tiên hiền của làng. Thực ra thì
trước đó, vào năm 1907, Thiện đàn ở đây đã cho khắc in bộ sách Cổ kim truyền lục đề tuyên truyền vận
động yêu nước. Bộ sách gồm 4 tập Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh với gần 400 bài
thơ văn, bao gồm nhiều thể loại, viết bằng chữ
Hán, do tập thể tác giả đều là người địa phương sáng tác. Văn Hiến đường
hiện có đôi câu đối về việc giáng bút và khắc in kinh :
Kinh điển bản
tàng Tiên hiền giáng bút thuỳ kinh điển
Cổ kim truyền lục Vãng thánh di thư diệu cổ kim
(Kinh điển bản khắc Tiên hiền giáng bút truyền kinh điển
Cổ kim truyền lục Thánh hiền di cảo sáng cổ kim)
Cổ kim truyền lục Vãng thánh di thư diệu cổ kim
(Kinh điển bản khắc Tiên hiền giáng bút truyền kinh điển
Cổ kim truyền lục Thánh hiền di cảo sáng cổ kim)
Tại Hạ Mỗ, không
chỉ Văn Hiến đường là nơi có giáng bút mà giáng bút còn được tổ chức trong chùa
Hải Giác nữa. Và Cổ kim truyền lục chính là tập thơ văn được tập hợp sau gần 4 tháng
giáng bút. Về cách phát hành thì phát cho mọi nhà, biếu tặng các nơi với mục
đích: Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn
vũ (sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn. Văn Hiến đường cũng còn là
nơi bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Tháng 4 năm 1996, khi về Hạ Mỗ để lấy tài
liệu tôi còn thống kê được 14 tên sách / bộ sách Hán Nôm tại Văn Hiến đường:
như: Thiên ất chân kinh (in, Bảo Đại 8 ), Văn Xương đế quân cứu kiếp bảo sinh
kinh (in, 1911), Ngọc Hoàng chân kinh (viết tay), Ngọc Hoàng phổ độ tôn kinh (2
bản in, Bảo Đại 8), Liệt thánh bảo cáo (in), Ngũ phúc kinh .Tập Ninh (in), Tâm
pháp thiết yếu chân kinh (2 bản in, Bảo Đại Mậu Thìn), Bảo huấn hợp thiên (in,
Tự Đức Bính Tý), Lã Tổ trung hiếu cáo (in, Thành Thái ất Tỵ), Dược sư kinh,...
Thơ văn giáng bút đã
được lưu truyền khá rộng rãi trong nhân dân vùng xứ Đoài. Hình thức lưu truyền
quảng bá thơ văn yêu nước trong khuôn khổ của một hình thức của tôn giáo, và
nhất lại là trong bối cảnh xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám
đã gây ảnh hưởng lớn và có hiệu quả rõ rệt.
Thiện
đàn với công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc
Đóng góp của các
thiện đàn trong công cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc là một đóng góp quan
trọng của các thiện đàn. Đóng góp này
thể hiện trên hai khía cạnh: Xây dựng,
giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống và Tu bổ tôn
tạo các di tích lịch sử văn hoá, in ấn
các kinh sách.
Xây dựng và giữ gìn
nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống là một yêu cầu của xã hội Việt
Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trước hết là sinh hoạt của thị dân ở đô thị. Vào
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ lên Bắc Kỳ,
Trung Kỳ. Sự phân hóa giai cấp diễn ra nhanh chóng trong toàn bộ xã hội. Luân
lý cổ truyền cùng các giá trị đạo đức truyền thống rạn nứt trước sự xâm thực
của văn minh phương Tây. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những
trục đường giao thông lớn nhỏ, kéo theo quá trình “Âu hóa” rất mãnh liệt.
Ở nông thôn bộ máy
lý dịch đã trở nên tha hóa. Bức tranh nông thôn Việt Nam trong suốt thời gian hàng thế
kỷ là một khoảng tối tăm với một đời
sống khổ cực và những áp bức nặng nề của bộ máy cường hào, lý dịch.
Trong tình hình xã
hội như vậy việc gióng lên tiếng trống thức tỉnh cách mạng, kêu gọi chấn chỉnh
nếp sống theo mẫu mực truyền thống là một công việc có ý nghĩa.
Các thiện đàn đã mọc
lên ở khắp mọi nơi và hoạt động khá sôi nổi trong cuộc chấn hưng văn hoá dân
tộc. Các buổi giảng thiện được thực hiện đúng theo lịch đã định sẵn, có đông
đảo nhân dân tham dự. Việc tu bổ và tôn tạo các di tích được nhiều người hưởng
ứng, và rất nhiều văn bia hiện đặt trong các di tích đã ghi lại việc sửa chữa,
tôn tạo này.
Đền
Ngọc Sơn - trụ sở Hội Hướng Thiện, cơ sở in ấn tàng bản và công cuộc chấn hưng
văn hóa dân tộc
Trong số các thiện
đàn đã biết thì đền Ngọc Sơn là một cơ sở tiêu biểu nhất. Đền Ngọc Sơn không
những là một cơ sở được thành lập sớm nhất, có đóng góp toàn diện nhất, là một
cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất, mà còn có vai trò như là một trung tâm có sức
lan toả rất lớn, trong phạm vi khắp cả đông bằng châu thổ Bắc bộ, nếu không
muốn nói là trong cả miền Bắc.
Đền Ngọc Sơn đầu thế kỷ XX. (ảnh tư liệu)
Theo bài văn bia Ngọc Sơn đế quân từ ký do Tiến sĩ Vũ
Tông Phan soạn năm 1843 thì đền Ngọc Sơn do hội Hướng Thiện tạo dựng năm 1842.
Ngoài mục đích thờ thần thánh, đây còn là nơi cho “sĩ phu kết bạn với nhau yêu
cảnh này, vì mến tên hồ này việc tu dưỡng, du ngoạn, nghỉ ngơi đều có nơi có
chốn”.
Từ sự thống nhất
trong hội Hướng Thiện, chủ trương chấn hưng văn hoá của Hội được các nhà khoa
bảng có uy tín trong hội và khắp Hà thành tán dương và coi là mục đích cao nhất
của hội. Việc đầu tiên mà các nhà Nho hướng đến là hướng dẫn cho mội người tu
dưỡng chính bản thân mình, trước hết là ngay là sự chính tâm (ngay thẳng) và
ngăn chặn những dục vọng xấu nảy sinh trong ngay chính lòng mình.
Đền Ngọc Sơn đã
được biến thành một giảng đàn là nơi mà đều đặn vào các ngày 2 và 16 âm lịch
hàng tháng hội tổ chức giảng thiện. Cũng tại đây đã tiến hành các buổi giáng
bút để xin những lời dạy của Thánh nhân qua một người trung gian. Các bản kinh
in ở đền Ngọc Sơn đại bộ phận đều là các kinh giáng bút bằng chữ Hán, ghi lời
giáng bút của các vị thần thánh có nguồn gốc từ Trung Quốc như Quan Thánh Đế
Quân, Văn Xương Đế Quân. Tuy nhiên, nội dung lời văn của các bản kinh này lại
rất phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội như: Tự giác ngăn ngừa các thói tham
lam, độc ác, dâm loạn, gian dối..., khuyên hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng
người trên, thương kẻ khốn cùng, chuyên cần học tập, chăm chỉ làm ăn...Mượn lời
dạy của thần tiên nhưng các bản kinh được in tại đền Ngọc Sơn không hề đưa lại
một tinh thần xuất thế, lảng tránh cuộc đời thực mà ngược lại lại rất tích cực.
Và có lẽ cũng chính vì thế, các kinh văn giáng bút được in ra ở đây được lưu
truyền rất rộng khắp trên nhiều địa phương cho tới tận Cách mạng Tháng Tám 1945.
Một khía cạnh khác
trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc của hội Hướng Thiện ở đền Ngọc Sơn là tu
bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá.
Tại khu vực xung quanh Hồ Gươm, hội Hướng Thiện đã tôn tạo Trấn Ba đình, trùng
tu đền Ngọc Sơn, xây Tháp Bút và Đài Nghiên... Khu vực Hồ Gươm có được khuôn
mặt như ngày nay là do những lần tu bổ tôn tạo này. Không những thế, với tình
cảm yêu mến Thăng Long, các nhà nho trong hội Hướng Thiện còn sáng tác biết bao
áng văn thơ đề vịnh trên những di tích danh thắng Hà Nội.
Đền Ngọc Sơn là một
cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất trong suốt khoảng 100 năm (1845 - 1945). Vậy
trong khoảng 100 năm ấy tại đền Ngọc Sơn đã có bao nhiêu bộ sách ra đời và đi
vào đời sống xã hội? Mới đây, Vương Thị Hường dựa vào hai cuốn sách Các đẳng kinh bản Ngọc Sơn thiện thư lược
sao mục lục (A.1116), Cao Vương kinh
chú giải (AC.438) cho chúng ta biết danh mục sách Hán Nôm in tại đền Ngọc
Sơn gồm 246 tên sách (mỗi tên sách có thể là một bộ với nhiều cuốn) thuộc nhiều
môn loại khác nhau như tôn giáo, văn học, sử học... (Tạp chí Hán Nôm số 1 -2000).
Có một điều đáng
chú ý là khi chúng tôi khảo sát các sách in kinh giáng bút thì thấy có hiện
tượng một số nơi (các thiện đàn) đã mượn ván in kinh giáng bút của đền Ngọc Sơn
về in và phát hành.
Như vậy là trong
suốt một trăm năm đền Ngọc Sơn đã là một cơ sở in ấn tàng bản lớn của cả vùng
châu thổ Bắc bộ, nơi đặt trụ sở của hội Hướng Thiện với các hoạt động thiết
thực trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Cũng chính vì lẽ đó mà cuối năm
1945, Hồ Chủ Tịch đã đến thăm hội Hướng Thiện, trò chuyện với các hội viên của
hội và căn dặn: “Các cụ đã cao tuổi mà vẫn còn giảng Thiện cho bà con theo, thế
là rất quý. Tôi xin phép gợi thêm vài ý. Tôi nghĩ điều Thiện lớn nhất là yêu
nước. yêu dân chủ, điều ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Tôi đề nghị các cụ khi
giảng Thiện nên chú ý khuyên đồng bào bảo vệ độc lập, tự do và tăng gia sản
xuất, xây dựng dân chủ”(Theo Nhân dân,
22 - 8 - 1990).
Nội
dung thơ văn giáng bút
Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội
dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền
rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đâù thế kỷ XX tập
trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân
tộc.
Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi:
Đây là một chủ đề
lớn của thơ văn giáng bút nói riêng và thơ văn yêu nước cách mạng nói chung. Trong
thơ văn giáng bút, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Giáng bút lời
của các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Liệt nữ “Tiết hạnh khả phong” ở làng Đông Ngạc...
- Giáng bút lời
của các vị thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên Sơn Thánh, Phù
Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh Công chúa, Từ Đạo Hạnh...
- Giáng bút lời
các tiên nho, các nhà văn hoá của Việt Nam như: Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Bà tổ nghề thao ở Triều Khúc...
Ngoài ra thơ văn
giáng bút còn nhắc nhớ thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được
nỗi nhục của dân mất nước.
Chấn hưng văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống
mới:
Về nội dung này,
thường được biểu hiện như sau:
- Đề cao việc
nâng cao dân trí
- Bài bác hủ tục
- Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh mẫu cho phụ nữ)
- Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau
- In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ
- Bài bác hủ tục
- Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh mẫu cho phụ nữ)
- Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau
- In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ
Hình
thức và Nghệ thuật thơ ca giáng bút:
* Về mặt văn tự:
Bà Liễu Hạnh về trời |
Về việc sử dụng chữ
Nôm và chữ Hán trong một tài liệu giáng bút, chúng ta ghi nhận một số điều sau:
Có cuốn toàn Nôm, có cuốn là Hán xen Nôm. Văn giáng bút chữ Hán thường là giáng
bút của các vị thần linh Trung Quốc, hoặc các vị Nho học, hoặc hướng đến đối
tượng là người có chữ nghĩa. Văn giáng bút chữ Nôm, ngược lại, thường là giáng
bút của các vị thần linh Việt Nam,
hoặc là các thánh mẫu, hoặc dành cho đối tượng là đông đảo tầng lớp bình dân.
Một vấn đề khác, văn giáng bút chữ Nôm bao giờ cũng có độ dài dài hơn các bài
giáng bút bằng chữ Hán. Còn về thể loại, văn giáng bút Nôm thường chọn các thể
thơ lục bát hoặc song thất lục bát, hoặc các thể thơ có khả năng diễn đạt phong
phú nhiều nội dung.
Thơ văn giáng bút,
để đạt được mục tiêu phát hành và tuyên truyền như trong lời nói đầu bộ Cổ kim
truyền lục là: “Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ” (Sách đến mọi nơi, tuyên
truyền khắp chốn) thì nhất định phải dùng chữ Nôm.
* Về
mặt thể loại:
Thơ văn giáng bút
nhằm đến nhiều đối tượng khác nhau, với mỗi loại đối tượng đã dùng các thể thơ
khác nhau.
Các tài liệu giáng
bút thường ghi rất rõ về thời điểm giáng bút (giờ, ngày, tháng, năm) và thậm
chí có tài liệu còn ghi rõ bài thơ văn giáng bút này là dành cho ai quê quán ở
đâu. Ví dụ trong cuốn Bản thiện kinh (AB.355) có ghi tường tận như vậy.
Phù hợp với từng
đối tượng, từng nội dung tuyên truyền, về mặt hình thức, đã có các thể thơ sau
được dùng: Phú, Thơ luật, Lục bát, Song
thất lục bát, Phong dao, Hát Xẩm, Từ khúc,Hát nói (Ca trù), Gửi thư (Ca trù),
Ngụ ngôn, Tiểu thuyết...
* Về việc minh họa:
Tài liệu giáng bút
hiện có trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ yếu là sách in bản khắc
gỗ (226 bản in / 254 bản sách) Trong đó có một số các văn bản thơ văn giáng bút
hiện có tại thư viện Viện Hán Nôm có nhiều cuốn có các đồ họa. Thiết nghĩ, rồi
đây những đồ họa này sẽ trở thành những tài liệu cho một công trình chuyên khảo
về Đồ họa Đạo giáo nói riêng và Nghệ thuật Đạo giáo nói chung.
Kết luận: Với 98 Thiện đàn hiện biết tại các địa phương trong hầu khắp các tỉnh miền Bắc là nơi có lưu truyền/sáng tác/in ấn/tàng bản kinh văn giáng bút cho thấy sự hoạt động sôi nổi của các Hội Hướng Thiện, Thiện đàn trong khoảng một trăm năm từ 1845 đến 1945. Các Thiện đàn và Hội Hướng Thiện, trong đó tiêu biểu nhất là Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã có những đóng góp lớn trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc.
Tư liệu thơ văn giáng bút tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn 254 cuốn. Kinh giáng bút được in nhiều vào các khoảng thời gian các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các Thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc.
Văn thơ giáng bút càng về sau càng sử dụng nhiều chữ Nôm và các thể thơ ca dân gian để thể hiện các lời dạy dỗ của các thần linh đất Việt. Điều này càng khẳng định chữ Nôm vẫn giữ vai trò nhất định trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, trong khuôn khổ các phong trào yêu nước. Trong hoạt động của mình các thiện đàn đã sử dụng thành công chữ Nôm trong việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hoá dân tộc.
Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc Hồn, Quốc Túy, Quốc Dân, Nòi Giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động%.
Hà Nội, 2006
N.X.D
Phụ lục:
Lời giáng bút của Bà Trưng Trắc
Mấy thu gánh vác chữ cương thường,
Gia quốc căng căng một dạ cường.
Tay vớt dân đen qua khí lửa,
Lòng đầy gan thắm giãi hơi sương.
Gió đưa một giải sơn hà lại,
Sấm những ba quân tiết nghĩa vang.
Cổ miếu hãy còn bay khói nghĩa,
Dấu thơm nước bạc gửi sen vàng
Ngâm:
Thiên địa hữu tâm khai thái vũ,
Cổ giáo liệt nữ xuất hùng tư.
Ra tay xây dựng cơ đồ,
Quyên trung áo nghĩa bô bô trong mình.
Mặt trung thành dạ kiên trinh,
Đuổi xa cẩu đảng, hồ tình cho tan.
Dân vừa an, nước cũng an,
ầm tiếng sấm giang sơn xây đắp lại,
Trung nghĩa cành mấy thu đã xơ.
Vốn nhu tư mà nghạnh khái trượng phu,
Vân Nùng lĩnh, nguyệt Bạc hồ,
Trăng phơi màu trắng, hoa phô vẻ vàng.
Gió tiêu sắt bay ngang gót ngựa,
Giải giang sơn quần chất dám khoe tài.
Nghìn thu hương phức lâu đài,
Chỉ trong tiết liệt há ngoài trung trinh.
Tiếng thơm rõ kiếm sử xanh,
Gọi là lược nói tâm tình qua qua.
May gặp thấy thiên hoa sắc nở,
Đem trung trinh giải tỏ chị cùng em.
Ca:
May làm sao, vui làm sao,
Xa nghe kinh nở vẻ đào năm hoa.
Lòng lấp muốn thiên gia hầu bái,
Phận nữ nhi nào phải đấng văn nhân.
Nào tiên, nào chúa, nào thần,
Mở lòng từ mẫn ân cần dạy khuyên.
Khắp mời hết hiền viên trong nước,
Giải lòng xưa mà lạy trước thềm hoa.
Chị em tin chớ chăng là,
Đất ta lại nảy người ta một màu.
Chẳng qua kẻ trước người sau,
Cung tiên trăm lạy khấu đầu tự đe.
Vui thay xiết kể vui thay!
[Ngày 27, giờ ngọ]
Trích “Tam Bảo Quốc âm chân kinh” – Trần Quang Huy
phiên âm
Vài
hình ảnh Nguyễn Xuân Diện thuyết trình về thơ văn Giáng bút tại Trung
tâm Văn hóa Pháp, 24 Tràng Tiền - Hà Nội, ngày 9 tháng 4 năm 2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét