TƯỚNG GIÁP TIẾT LỘ 4 BÍ MẬT VỀ CHIẾN
TRANH VIỆT NAM.
Khi tôi chuyển sang làm phóng
viên báo đảng, cũng là phóng viên nữ duy nhất của tòa soạn báo Cựu Chiến Binh,
tôi có điều kiện tiếp xúc với tướng Giáp nhiều hơn (sinh nhật, lễ, tết, dịp
thượng thọ,...) Một trong những lần đó là ngày sinh nhật lần thứ 84 của ông.
Giữa các đoàn khách nườm nượp
ra vào, đa phần là lính tráng, ông vui vẻ bắt tay từng người, nhận của học trò
Nguyễn Thụy Ứng (dịch giả 4 tập "Sông Ðông êm đềm"), một bức tranh
khổ rộng, chỉ có duy nhất chữ thọ với 1,000 kiểu viết khác nhau. Cuối cùng,
dường như không nén nổi xúc động trước sự quan tâm đặc biệt của mọi người, ông
cất giọng trầm, đục kể lại:
- Tôi đã tưởng sẽ đem những bí
mật của mình xuống mồ nhưng không ngờ trời cho tôi thọ đến vậy. Vì thế, trong
lần sinh nhật thứ 84 này, tôi xin tiết lộ bốn bí mật trong cuộc đời của tôi để
anh em biết.
Lập tức cả căn phòng lặng phắc, nghe rõ cả tiếng gió lao xao trên các tàu lá
dừa ngoài vườn.
Ðiều thứ nhất - ông kể: Năm
1972, còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, tôi vẫn lấy
phương châm tiến công như mọi khi: 'Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy
yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động, khiến địch trở tay không kịp'. Cứ dùng
chiến tranh du kích tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ, hết đêm này sang đêm khác để
địch suy tổn lực lượng rồi đánh cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ
như mọi trận khác vẫn diễn ra từ trước đến nay. Không ngờ quan điểm của tôi bị
Ba Duẩn (Lê Duẩn) bác bỏ không thương tiếc. Giữa hội nghị, anh Ba đập tay xuống
bàn, quát: 'Thế là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả
đấm chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu,
cứ đánh vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách
nhiệm'.
Kết quả trong suốt 60 ngày đêm
của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu chập choạng
tối, một đại đội ta ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang để đánh vỗ
mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười lăm người. Lần
nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương). Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng
chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả một khúc sông, không một bóng
người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như những âm hồn vọng vang khắp đáy sông.
Như vậy, trung bình mỗi ngày ta tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 người)
và 60 ngày đêm tấn công thành cổ ta mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng
Trị thành nấm mồ chôn thanh niên, sinh viên, trí thức Việt Nam.
Ðiều thứ hai - ông vươn cao cái
cổ gầy, giọng nói nửa như kiêu hãnh, nửa như nuối tiếc, khuôn mặt đẫm vẻ u
hoài, bí ẩn: Lẽ ra ta không có được chiến thắng lẫy lừng là giải phóng miền
Nam, chỉ vì sau hội nghị Paris, anh Ba Duẩn ra chỉ thị ngừng tất cả các cuộc
tấn công lại, chỉ tập trung củng cố lực lượng, tăng gia sản xuất, nuôi quân cho
tốt rồi sau vài năm phát triển vượt bậc sẽ đánh một trận dứt điểm, không để
địch có cơ ngóc đầu phản công như hồi tổng tiến công xuân Mậu Thân 1968 nữa.
Khi kế hoạch đưa ra, rất nhiều
anh em, tướng tá cũng như lãnh đạo đơn vị không hài lòng nhưng là lệnh của cấp
trên nên buộc phải chấp hành. Không ngờ, phía dưới, cũng như vùng sâu, vùng xa,
lực lượng dân quân, du kích, bộ đội địa phương đang phát triển mạnh nên không
chịu ngừng kế hoạch luyện tập, tấn công lại. Phần vì không nhận được lệnh trên
nên cứ âm thầm chuẩn bị. Thế là như đứa bé đang tuổi ăn, tuổi lớn, không có
cách gì ngừng sự phát triển lại được nên đành để vậy. Nhờ đó có chiến thắng 30
tháng 4 năm 1975.
Ngừng lời, đưa mắt nhìn những
người một thời đầy tin cẩn, ông cất giọng khàn, đục, nghiêm trang:
- Ðiều thứ ba, khi biết sớm
muộn gì ta cũng tấn công vào Dinh Ðộc Lập, chấm dứt cuộc kháng chiến chống Mỹ
dằng dặc 21 năm, tôi đưa ra đề nghị: Ta đánh để thống nhất hai miền. Riêng các
phái đoàn ngoại giao của Mỹ cũng như đại sứ quán Mỹ đóng tại Việt Nam,
ta nên tôn trọng vì họ là những người chứng kiến cuộc chiến tranh này và họ sẽ
ghi nhận thành tích của chúng ta, không nên đối xử thô bạo với họ như kẻ thù.
Không ngờ Ba Duẩn trợn mắt quát: 'Không được, phải đánh chết những con chó, kể
cả khi nó đã rơi xuống nước. Tất cả bọn Mỹ, dù là cán bộ ngoại giao hay Lầu Năm
Góc đều là kẻ thù của nhân dân Việt Nam. Vì thế, phải chiến đấu quét
sạch chúng đi, không để một tên xâm lược nào trên mảnh đất chúng ta'.
Quá khứ đè nặng trên đôi chân
của một người đã 84 tuổi, đang nói, ông ngồi phịch xuống ghế, cạnh bà Hà (vợ
ông) gương mặt bần thần, tướng Giáp kể tiếp: Cũng vì quen với tiền lệ ở các
quốc gia khác, quân đội cứ đánh, còn cán bộ ngoại giao đóng vai trò quan sát,
không hề bị chi phối bởi cục diện giữa hai trận tuyến, kẻ thắng, người thua,
nên đại sứ quán Mỹ, các phóng viên mặt trận, vẫn ung dung tự tại trước cuộc tấn
công ngày một ồ ạt của ta... Không ngờ, khi lệnh Ba Duẩn ban ra, tất cả đang từ
thế chủ động thành bị động, phải lập tức thu xếp đồ đoàn ra về trước khi Sài
Gòn giải phóng. Chính vì thế cảnh vô cùng hỗn loạn trong các ngày 28, 29, 30
tháng 4 năm 1975 xảy ra. Hàng chục máy bay lên thẳng bị hàng trăm người đeo
bám, để lại một dấu ấn nhục nhã trong lịch sử nước Mỹ. Ngay sau đó ta phải trả
một giá đắt cho chính sách cực đoan của mình. Hiếu thắng một giây, kiêu ngạo
một giờ mà đổi bằng cái giá của 20 năm cấm vận. Cả nước vật lộn trong mưu sinh,
khốn khó của thời hậu chiến.
Giọng ông cao lên một nấc, nhìn thẳng trở lại, ông đưa bàn tay khô héo, chi
chít các vết đồi mồi, lên cổ, lên ngực, cố giữ một cơn ho:
Thứ 4, ngay từ cuối năm 1979, khi biết PolPot gây ra hoạ diệt chủng ở Cam pu
Chia, tôi đã phát biểu trong cuộc họp: 'Trong hai thằng Lào và Campuchia, chỉ
có thằng Lào là anh em với mình thôi. Còn thằng Campuchia sẽ phản lại mình,
không nên đưa quân sang giúp nó, khi chưa có sự lên tiếng của quốc tế' - nhưng
Ba Duẩn nhận định: Việt, Lào, Campuchia là ba nước láng giềng, như ba chân
kiềng kê trên mảnh đất Ðông Dương nên phải giúp nó, sau đó sẽ có kế hoạch thôn
tính nó sau... Kết quả, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, dân tộc ta đã
mất cả triệu người con ưu tú, nay thanh niên trai tráng, rường cột quốc gia lại
bị điều động bắt lính vô tội vạ để sang chiến đấu tại chiến trường K. Bởi cùng
học thầy Trung Quốc nên lối đánh của chúng rất khó chơi, cũng thiên về quấy rối
du kích, đánh không theo bài bản nào, chỉ nghi binh, đánh cấp tập rồi rút lui,
đồng thời rải mìn vô tội vạ, khiến cho lực lượng ta thương vong nhiều không kể
xiết. Tôi nhớ lần tới một trạm phẫu trung đoàn. Trung bình một ngày, anh em bác
sĩ ta phải cưa chân 40 chiến sĩ do bị mìn cài, mìn đặt... Trong điều kiện thuốc
men thiếu thốn, thuốc giảm đau cũng như gây mê đều hạn chế, anh em kêu khóc như
ri. Chỉ sau một tuần là số chân bị cưa xếp cao như núi, hơn hẳn đầu người một
tầm tay với. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa toả ra khắp vùng, đi
cách xa trạm cả 7, 8 km mà mùi hôi thối vẫn xông lên nồng nặc..."
Ngay sau đó, bà Ðặng Thị Hà -
con gái ông Ðặng Thai Mai (một nhà nghiên cứu văn học có tên tuổi của Việt Nam)
đứng dậy, kéo ông ra khỏi khu vực đặt bàn tiếp khách và yêu cầu chúng tôi về để
ông nghỉ vì mỗi ngày ông phải tiếp mấy chục đoàn. Bà Hà với tư cách một người
vợ phải kéo ông ra kịp thời trước cả rừng câu hỏi của khách, cũng vì thế giọng
bà, không còn là giọng một vị chủ nhà mà thành "tư lệnh" đuổi khéo
tất cả những ai còn muốn ở lại làm phiền ông...
Cuối năm 1995, tôi chuyển sang
báo khác, làm một "cựu chén binh" thay vì "cựu chán binh"
với mấy ông già lẩm cẩm, công thần, độc đoán, nên không còn được gặp Tướng Giáp
thường xuyên như trước.
Sống đến tuổi 84, ông không ngờ trời cho tuổi thọ cao như thế, nên quyết định
thốt ra bốn bí mật của đời mình. Ðến nay - khi trở thành một "hoá thạch
sống" - vắt ngang từ đầu thế kỷ 20 (ông sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911) đến
đầu thế kỷ 21 (2009) ở độ tuổi 98, ông còn tiết lộ thêm những bí mật nào khác?
Tôi không được biết. Chỉ có điều, mỗi lần nghĩ về tướng Giáp, tôi lại thấy lòng
mình xao động lạ lùng. Một chút thương (hại), một chút cảm phục, một chút trách
móc, một chút trào lộng (*).
Ở Việt Nam, ai cũng biết ông là
một vị đại tướng trong thời chiến và một bại tướng trong thời bình, bị Ba Duẩn,
Lê Ðức Thọ tam tứ phen làm cho thất điên bát đảo. Ngay cả ông Hồ cũng không
chịu nổi uy tín và sự nổi tiếng của ông sau chiến dịch Ðiện Biên Phủ (khi đó, dưới
ngọn cờ cách mạng bay lồng lộng là hình ảnh tướng Giáp) nên thay vì đề cử người
kế cận mình là tướng Giáp, đã đề cử Lê Duẩn, hy vọng con ngựa Lê Duẩn sẽ chịu
để ông cầm cương, thuần dưỡng... Không ngờ, năm 1963, chính ông lại là người bị
hai học trò "xuất sắc" là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ vô hiệu hoá.
Còn Tướng Giáp, trước sự lấn
lướt của Duẩn, Thọ thì tự cài số lùi, mỗi ngày một lùi dần, lùi dần, lùi đến
tận cửa nhà hộ sinh của chị em mới thôi. Cho nên khẩu ngữ quen thuộc của mỗi
người dân, người lính Hà Nội khi nhắc đến tướng Giáp là: "Từ cây đa Tân
Trào (căn cứ địa cách mạng, nơi 34 cán bộ vũ trang tuyên truyền giải phóng quân
đầu tiên của Việt Nam) tới cây đa Nhà Bò (phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội, nơi hàng chục chị em ngất nghểu vác bụng đến trạm hộ sinh sinh nở mỗi
ngày).
Kể từ ngày Tướng Giáp vinh dự
trở thành trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch, khắp Hà Nội đồn thổi câu ca nghịch
ngợm của nhà thơ Nguyễn Duy:
Bác Hồ nằm ở trong lăng,
Nhiều hôm bác bỗng nghiến răng, giật mình
Rằng giờ chúng nó linh tinh
Tuổi tên của mình (**) chúng ném xuống ao
Ao nào thì có ra ao
Cái tròn cái méo, cái nào cũng sâu
Hỏi rằng Tướng Giáp đi đâu
Dạ thưa Tướng Giáp... lo khâu: đặt vòng....TRẦN KHẢI THANH THỦY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét