Thứ Tư, 4 tháng 9, 2013

GIAN NAN CON ĐƯỜNG PHỤC CHẾ MỘT TẤM BIA THỜI LÝ

GIAN NAN CON ĐƯỜNG PHỤC CHẾ MỘT TẤM BIA THỜI LÝ
Nguyễn Huệ Chi
Vào khoảng gần giữa những năm 40 thế kỷ trước, khi Trường Bưởi tản cư về Thanh Hóa để tránh bom phe Đồng minh dội xuống quân Nhật đóng ở Hà Nội, GS Hoàng Xuân Hãn – thầy giáo của trường – đã dành cơ hội đi điền dã vào các ngày Chủ nhật để thám sát nhiều đình chùa cổ trong cả một vùng rộng lớn và bất ngờ phát hiện ra những tấm bia thời Lý vô cùng quý giá, trong đó có bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn (núi Hàm Rồng ngày nay) do Giác Tính Hải Chiếu đại sư Thích Pháp Bảo soạn vào năm 1128, khắc họa chân dung một Thái úy Lý Thường Kiệt (1019-1105), người “nắm sẵn mưu chước lớn của Triều đình”, khi biết “quân biên giới nhà Tống [có âm mưu] nhòm ngó nước ta” bèn “thống lĩnh quân sĩ, [tiến sang] diệt ba châu bốn trại [của chúng] như bẻ cành gỗ mục”. Rồi “chẳng bao lâu [quân giặc] lại ồ ạt kéo đến sông Như Nguyệt thề trả thù cho ba châu. Thái úy lại cầm quân chống giặc. Thái úy lấy tư cách biện sĩ mà phân tích cho giặc, không vất vả mà bọn đầu sỏ rã rời nhụt chí. Thế là giữ được an ninh cho xã tắc”:

Lý công nước Việt,
Noi dấu tiền nhân.
Cầm quân tất thắng,
Trị nước an dân.
Danh lừng Trung hạ,
Tiếng nức xa gần.
Vun trồng phúc đức,
Đạo Phật sùng tin...
Tấm bia ra đời vào thời điểm rất gần những sự kiện lịch sử nóng bỏng là cuộc chiến Lý - Tống, vì thế có thể coi là một trang hồi ký sinh động của người đương đại viết một câu chuyện thời sự vừa diễn ra chưa bao lâu, làm nổi lên một nhân cách lịch sử sáng chói của thời đại mình. Cũng chính GS Hoàng Xuân Hãn còn tìm thấy tấm bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh ở hương Duy Tinh, quận Cửu Chân, nay thuộc thôn Duy Tinh, xã Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, cũng do cùng một tác giả Pháp Bảo soạn vào năm 1118, trước tấm bia trên đến 10 năm, nhưng lại nói về một ông Thông phán (chức quan chuyên trách về lương thực, ruộng đất và thủy lợi) họ Chu, là người được vua Lý Nhân Tông sai coi giữ quận Cửu Chân sau khi Lý Thường Kiệt mất vừa tròn 10 năm (1115), một nhân vật được nắm giữ việc quan lúc còn rất trẻ nhưng tài học vang lừng và tài trị dân nổi tiếng: “Chu công là người ôn hòa kính cẩn, khí khái thanh liêm. Lấy trung tín thờ người trên; lấy khoan nhân tiếp kẻ dưới. Nghe lời nói hay thì để mãi trong lòng; học đủ ba đông mà không biết mệt mỏi. Tinh thông kinh sử; uyển lệ văn chương. Tiếng khen lan truyền trong đám nho sinh; tên tuổi vang lừng nơi trường ốc”. Và khi đến lỵ sở Cửu Chân nhậm chức thì ông “quyết tâm thay cũ đổi mới”, “Không chùng không thẳng mà khoan mãnh dựa nhau; không mềm nắn rắn buông mà cương nhu hợp độ. Xếp đặt mọi việc; đều hợp lễ nghi. Khuyên nhân dân chăm việc nông tang; xét hình ngục cốt điều hòa ái. Cho nên trên dưới một lòng, bỏ hết kiện tụng; xóm làng vui vẻ, phong hóa thanh cao”. Tiếng tăm đồn thổi về triều, ông được vua Lý Nhân Tông triệu về kinh đô cho trông coi việc xây dựng kinh thành Thăng Long và cung diện của nhà Lý. Sau khi mọi việc hoàn thành, rất đẹp lòng vua, nên ông lại được đặc cách coi giữ toàn trấn Thanh Hóa, ngang chức với Lý Thường Kiệt trước khi từ trần:
Coi dân giữ đất,
Có bậc tài danh.
Việc quan trinh thuận,
Dốc hết lòng thành.
Người gần cung kính,
Người xa cảm tình.
Ban bố chiếu chỉ,
Vỗ yên dân lành.
Xóm làng hòa mục,
Kho đụn đầy nhanh.
Ngục hình không lạm,
Trị nước nổi danh...
Thu thập được một cụm những tấm bia như vừa dẫn trên đây, GS Hoàng Xuân Hãn đã khai thác được nhiều tư liệu sử học và địa lý đặc sắc, soi sáng cho một công trình nổi tiếng của ông xuất bản vào năm 1949 tại Hà Nội là cuốn Lý Thường Kiệt, cho đến nay vẫn được các thế hệ học giả đi sau lấy làm mẫu mực.
Hai mươi năm sau những tìm tòi của Hoàng Xuân Hãn, khi được Viện Văn học giao cho phụ trách Nhóm thơ văn Lý - Trần, tôi đã cùng nhiều bạn bè trong Nhóm, thuộc nhiều thế hệ, vào nhiều khoảng thời gian khác nhau, như PGS Đỗ Văn Hỷ (đã quá cố), PGS TS Trần Thị Băng Thanh, PGS TS Phạm Tú Châu, các bạn Hoàng Lê, Lại Văn Hùng, Phạm Ngọc Lan, Đặng Thị Hảo, Phạm Văn Ánh, Quách Thu Hiền... tổ chức nhiều đợt khảo sát về các di chỉ Lý - Trần xưa để thu thập, bổ sung tư liệu. Đặc biệt, lần theo bước chân vị GS họ Hoàng, từ năm 1971 chúng tôi đã trở lại tìm hiểu các tấm bia thời Lý mà ông từng công bố trong cuốn sách của ông. Điều rất ngậm ngùi là ở Thanh Hóa, hết thảy các “kỷ vật” văn tự vô giá thuở nào Hoàng Xuân Hãn từng nâng niu thì nay đều đã hoàn toàn... mất bóng. Thậm chí không phải chỉ bia thôi mà một số ngôi chùa tiếng tăm như Linh Xứng (núi Ngưỡng Sơn / Hàm Rồng), Báo Ân (núi An Hoạch / Núi Nhồi), Hương Nghiêm (núi Càn Ni / thuộc xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa)... cũng trở thành phế tích hoặc đã ra tro bụi từ lâu. Khi đến chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh, nhìn quang cảnh ngôi chùa sầm uất xưa kia vẫn đứng uy nghi với các hoa văn rồng Lý khắc chạm tinh xảo ở các thềm đá bao quanh cao đến nửa mét còn giữ nguyên được nhiều chỗ, chúng tôi mừng hớn hở, đứng ngắm nghía thật lâu, tưởng như gặp lại được một người bạn tri âm tri kỷ. Ai dè khi đến tận nơi tấm bia nổi tiếng có ảnh trong cuốn Lý Thường Kiệt đang đứng lầm lũi ở mé bên phải sân chùa thì một cảnh tượng khiến ai nấy sững sờ: một tảng đá “sứt đầu mẻ trán”, với nhiều vết đạn lỗ chỗ sâu hoáy trên thân mình, cùng những dòng chữ Hán đã gần nhòe hết nét khắc, có vẻ như sượng sùng cúi mặt không còn muốn chào đón khách tham quan. Hỏi han người xung quanh thì vào thời kháng chiến chống Pháp, bộ đội về đóng trong chùa, cần tập bắn, nên có lúc đã... mượn bia làm mục tiêu cho tiện một công đôi việc (chống thực dân và chống phong kiến, bao gồm cả tôn giáo trong đó). May mà ngôi chùa quá danh tiếng nên không bị phong trào “hợp tự” năm 1948 đặt vào tầm ngắm, và nhờ đó bia vẫn chưa bị nung vôi. Cầm lòng không được, chúng tôi không khảo sát kỹ hơn nữa các di tích khác ở xung quanh chùa mà bảo nhau leo lên xe đạp về ngay. 
 
Trở về Hà Nội, đành lần tìm trong Thư viện Viễn đông Bác cổ của Pháp cũ, bấy giờ đã trở thành Thư viện Khoa học xã hội Việt Nam. May mắn còn tìm được bản sao các văn bia do GS Hoàng Xuân Hãn lưu lại, lại tìm thêm được thác bản của chúng do chính Trường Viễn đông Bác cổ Pháp cử người đi dập, nhờ đó tham bác với nhau để khảo đính các văn bia này và công bố trong Tập I Thơ văn Lý - Trần năm 1977. Cũng là một chút an ủi để niềm tin khỏi đến mức tiêu tan.
Thác bản bia Sùng Nghiêm Diên Thánh của Viễn đông Bác cổ Pháp trước 1945
Đến năm 1992, chúng tôi lại kéo nhau trở lại chùa Sùng Nghiêm. Bấy giờ chùa đã được trùng tu, khang trang hơn nhiều, nhưng nhiều hiện vật thời Lý còn giữ được cũng vì thế mà bị người trùng tu loại bỏ, như phần hoa văn rồng Lý ở các thềm bó vỉa xung quanh nền chùa bị lấy hết đi, gắn vào một bức tường để làm chứng tích, còn thì thay bằng đá chạm hoa sen mới được thi công, nét khắc nông và thô hơn rất nhiều. 
 Các tảng đá chạm hoa văn rồng Lý bó vỉa nền chùa bị bóc đi khi trùng tu 
Dù sao, xem xét khắp từ chùa ngoài, gác chuông, nơi tàng giữ kiệu, các mộc bản lưu trữ, cho đến hậu cung... thì đây vẫn là ngôi chùa tương đối ít có những “sáng kiến táo bạo” trong quá trình trùng tu (nghĩa là mạnh tay xài tiền), do nhà sư nữ trụ trì vốn rất cẩn trọng, nên ít nhiều những di vật cổ kính vẫn còn giữ được. Phần hoành phi câu đối được thay mới không đáng kể, chưa đến nỗi làm “cộm mắt” người xem như vô số đình chùa miền Bắc.
 Hoành phi mang dòng chữ “Sùng Nghiêm Diên Thánh tự” và các câu đối nơi chùa chính vẫn không thay đổi
 Những cỗ kiệu xưa vẫn còn nguyên vẹn
Các bệ hoa sen bằng đá kê tượng Phật trong hậu cung cũng được giữ lại, với những mảng khắc chạm sóng nước có lẽ nếu có muộn cũng không xa lắm với thời điểm xuất xứ của ngôi chùa.
 Bệ đá hoa sen và hoa văn sóng nước kê tượng Phật vẫn được giữ lại 
Duy tấm bia Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh tính tự tuy cũng cố gắng “vá” lại bằng xi măng và đắp nổi chữ Hán trên trán bia, có dựng thêm nhà bia và xây một bệ bia hoa sen hẳn hoi, nhưng vì thế càng phô ra vẻ thảm thương của một “phế nhân” còn đầy vết đạn, và chữ thì mờ nhòe gần hết, đến mức nói như Cao Bá Quát: “Thế sự hà kham một tự bi” – Việc đời chịu sao cho thấu tình cảnh tấm bia nhòe chữ! 
 Thế sự hà kham một tự bi!
Khi chúng tôi vào khu nhà tổ, sư trụ trì đi vắng, chỉ có một bà vãi đưa ra một cuốn sổ ghi cảm tưởng để xin đoàn viết cho mấy dòng. Đang sẵn mối mặc cảm về tấm bia, tôi ghi ngay: “Xin nhà chùa hết sức lưu ý tìm mọi cách phục chế lại tấm bia giống như bia gốc, vì bản dập thuở xưa ở trung ương vẫn còn giữ được. Nếu không, dù chùa trùng tu tráng lệ đến đâu cũng không tránh được nỗi phiền muộn cho khách thăm chùa”.
Thế rồi bẵng đi đến 14 năm. Vào năm 2006, tôi vừa nghỉ hưu được một năm, một hôm bỗng nghe tiếng điện thoại reo, nhấc lên thì đầu dây bên kia là một giọng nữ nghe rõ tiếng nói vùng Thanh Hóa. Người ấy xưng tên là Thích Đàm Tâm và tìm hỏi GS Nguyễn Huệ Chi. Thì ra đây chính là vị sư trụ trì chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh mà năm xưa, khi chúng tôi đến vãng cảnh, vì nhà sư có việc đi vắng nên không được gặp. Nhưng lúc sư trở về, đọc được mấy lời tôi viết trong cuốn sổ cảm tưởng, lạ thay, bà không hề phật ý, trái lại, rất lấy làm tâm đắc. Đinh ninh lời khuyến cáo của tôi, sư hội chúng tăng trong chùa lại, nói đó cũng chính là tâm nguyện bấy lâu của mình, và kêu gọi khách vãng lai cũng như thiện nam tín nữ từ nay hãy dồn tiền công đức dành cho việc phục chế tấm bia này, nếu không thì quá xấu hổ. Ai nấy đều đồng lòng với sư. Trải qua 14 năm, số tiền lặng lẽ tích góp tính ra đã có thể tạm trang trải cho các công đoạn làm lại tấm bia, sư bèn tìm hỏi bằng được số điện thoại của tôi, xưng danh, và đặt thẳng vấn đề nhờ tôi đứng ra lo toan việc tái lập văn bản cũng như xem xét phương án thiết kế một mô hình sao cho thật lý tưởng để có thể bắt đầu khởi công khắc bia. Tôi nghe sư nói, kinh ngạc, ngỡ ngàng, đứng lặng giây lâu, và cuối cùng thì vỡ òa thành một niềm vui.
Lập tức, vài hôm sau tôi liên lạc lại với anh chị em trong Nhóm Lý - Trần cũ và vạch ra một kế hoạch cụ thể. Việc trước mắt là khảo đính lại thật chuẩn mặt trước văn bia vốn đã được công bố trong Thơ văn Lý - Trần Tập I do tôi Chủ biên. Mọi người nhất trí giao cho tôi tiếp tục đảm nhiệm. Sử dụng thác bản của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp còn lưu giữ, soi kính lúp để tham chiếu với văn bản in ảnh trong cuốn Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, tôi liệt kê ra những chữ không còn đọc nổi và đi tìm lời giải trong khi so sánh với văn bản mà chúng tôi đã khảo đính trong Thơ văn lý - Trần Tập I (1977), kết hợp với Văn khắc Hán Nôm Việt Nam Tập I do GS Claudine Salmon và PGS Phan Văn Các xác lập năm 1998, dựa trên thành quả của chính bộ sách của chúng tôi. Sau 2 tháng, bản khảo đính chi tiết của tôi xong xuôi, được anh em trao nhau đọc và chấp nhận. Chúng tôi liền tổ chức một chuyến đi chùa Sùng Nghiêm vào ngày 23-7-2006 để xem xét mặt sau tấm bia xem có khắc chữ Hán nào không, nếu có thì cũng phải tái lập văn bản. Trách nhiệm việc đọc phó thác cho vợ tôi, Nguyễn Kim Hưng, bạn Phạm Văn Ánh (Viện Văn học) và Nguyễn Văn Thanh (Viện Hán Nôm). Hóa ra, đến nơi mới biết, chữ Hán chiếm gần một nửa mặt bia phía sau, nhưng trước nay chưa ai ghi lại. Ba người đã dán mắt vào đọc và đoán suốt cả một buổi, rồi cùng nhau hội lại, xác định được khá chắc chắn 13 hàng chữ (không kể những chữ đã mờ tịt), ghi rõ việc cúng ruộng hậu điền cho chùa, khắc lên bia vào ngày 16 tháng 12 năm Kỷ Sửu (dựa trên kiểu chữ thì biết là vào thời hậu Lê nhưng không rõ đích xác năm nào). Đó là thêm một văn bản thứ hai.   
 Chuyến hành hương chùa Sùng Nghiêm ngày 23-7-2006. Từ trái sang, người thứ 3: Nguyễn Văn Thanh; thứ 4: Phạm Văn Ánh; thứ 5: Đặng Thị Hảo; thứ 6: Thích Đàm Thành, đệ tử sư bà Thích Đàm Tâm; thứ 7: Nguyễn Kim Hưng. 
Về phần tôi, đây là lần diện kiến chính thức sư bà Thích Đàm Tâm để nghe nhà sư trải lòng về nỗi niềm canh cánh đối với tấm bia kể từ khi bà về chùa đây trụ trì. Và đây cũng là cơ hội để tôi tập hợp lại mớ tài liệu ghi chép tên họ những người đã cùng với nhà chùa phát tâm trong bấy nhiêu năm cho mục tiêu làm tấm bia mới.
 Lần đầu diện kiến sư bà Thích Đàm Tâm ngày 23-7-2006
Trở về lại Hà Nội, hội ý với anh chị em, chúng tôi mời nhà thư pháp Lê Quốc Việt tham gia vào cuộc. Việt vui vẻ nhận lời, cùng chúng tôi bàn thảo rất kỹ cách thiết kế tấm bia. Dựa trên thác bản của Viễn Đông Bác cổ Pháp đã có, Việt nhận đảm đương mấy phần việc quan trọng: viết dòng chữ triện trên trán bia cùng vẽ mô hình rồng Lý hai bên chầu vào; thiết kể chuỗi hoa văn hoa dây leo xung quanh diềm bia và các mô-típ trang trí chạy ngang ở dưới trán bia cũng như dưới chân bia. Việt cũng nhận viết cho phần chữ Hán Hậu điền ở nửa mặt sau bia phỏng theo kiểu chữ thời Lê mà bàn tay tài hoa của anh thực hiện không mấy khó khăn. Nhưng phần chữ chính của văn bản mặt trước là chữ khải thời Lý - Trần thì Việt gợi ý, phải mời cho được nhà thư pháp Phan Bảo có uy tín bậc nhất của Thanh Hóa. Mặt khác, còn có một đế bia vốn không còn tồn tại, nay phải tìm cách tạo hình cho nó và phải tìm được một cách trang trí hoa văn thích hợp. Sau nhiều buổi trao đổi cặn kẽ, chúng tôi thống nhất làm một bệ bia cao nửa mét và chọn những mô-típ trang trí thời Lý tiêu biểu hiện còn. Việc này Việt cũng hăng hái nhận giúp cho luôn. Quả nhiên, chỉ chừng hai tháng, tham khảo hết các ảnh chụp còn lại trong các bảo tàng và sách vở đây đó, Việt đã thiết kế hoàn chỉnh mô hình một đế bia được khắc họa tỉ mỉ với kiểu trang trí ở tháp Chương Sơn còn lại. Ai nấy xem xong đều rất đẹp ý. Riêng tôi, phải tự mình đi vào Thanh Hóa gặp gỡ nhà thư pháp Phan Bảo. Rất may, cuộc hội ngộ ngộ diễn ra suôn sẻ. Tôi gặp được một con người lịch lãm, phong độ, ít nói nhưng rất cởi mở. Ông thết tôi thứ rượu cúc cất riêng cho mình tuyệt ngon, và khảng khái nhận lời tôi, dù món tiền bồi dưỡng mà tôi đưa đến chẳng tương xứng với tài năng công sức của ông. Y như rằng ông đã nói là làm. Cùng thời gian Việt làm xong đế bia thì chúng tôi cũng nhận được một bản chữ Hán từ Thanh Hóa gửi ra, kiểu chữ khải cổ, so với thác bản cứ ngỡ là hai chị em song sinh, nhưng một bên đã trải qua phong sương một nghìn năm, một bên còn nguyên vẻ nõn nà của thời son trẻ. Mừng biết mấy là mừng! Về phần mình, tôi cũng viết một bài Hậu ký cho nửa sau mặt bia còn lại, kể sơ lược tình trạng tấm bia qua nhiều thời kỳ lịch sử, quá trình nhà chùa cùng chúng tôi bắt tay vào “tân tạo”, cuối cùng là ghi tên những ai đã góp công sức vào công cuộc trùng tu này. Cho đến tháng Mười 2006 thì bản thiết kế chi tiết xong hoàn toàn. Lê Quốc Việt góp một phần công sức không nhỏ. 
 Mặt trước bản thiết kế
 Mặt sau bản thiết kế gồm cả Hậu điền và Hậu ký
Việt còn đưa bản vẽ đến một công ty để in phóng to đúng kích cỡ trên vải nilon, và cùng chúng tôi kéo nhau vào chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh trình với sư bà Thích Đàm Tâm và Ban quản lý ngôi chùa một lần cuối cùng. Ấy là vào tháng Mười năm 2006. Lần này có thêm Quách Thu Hiền, một cô gái giỏi giang, mới về Ban văn học Cổ cận đại của Viện Văn học qua kỳ thi tuyển trước khi tôi nghỉ hưu. Chúng tôi ngồi soát xét lại văn bản ngay giữa sân chùa. Sư bà và người đến chùa chứng giám đều không khỏi trầm trồ, kinh ngạc.
 Những người đang kiểm tra lại bia, từ trái sang: Phạm Văn Ánh, Quách Thu Hiền, 
Lê Quốc Việt, Nguyễn Huệ Chi
Những tưởng mọi việc thế là hoàn tất. Nào có ai học đến chữ ngờ. Khó khăn nảy ra bắt đầu ở việc tìm đá khắc bia. Chúng tôi chủ động thay mặt nhà chùa đi lùng đá có đến dăm bảy phen, chẳng nơi nào có đá mà mình ưng ý. Khác với việc khai thác đá thời xưa, làm bằng phương pháp thủ công, chậm nhưng đá đục ra nguyên phiến, nay các công ty đều dùng mìn lấy đá, nên ít còn kiếm được đá đúng khuôn khổ. Thảng hoặc có được tảng đá to thì thế nào nhìn kỹ cũng ẩn những đường nứt dọc ngang. Thậm chí có lần cả mấy anh chị em đã vào tận núi Nhồi, chịu đựng cái nóng hầm hập và bầu không khí bụi cát mù mịt, dò từng tảng đá nằm ngan ngác tại các công ty đá ở đây, cuối cùng vẫn phải ngao ngán lắc đầu. Thứ nữa là thợ khắc. Không ít người nói sẵn sàng khắc chữ đúng theo bản mẫu. Song khi đến nhìn họ làm thì chỉ là khoét chữ lên đá, chữ hiện hình đấy song không tài nào gọi được là khắc chữ Hán đúng kiểu của người thợ khắc thời cổ (cắt đá lõm xuống theo hình chữ V). Tìm cùng khắp mà rốt cuộc cũng chưa chấm được người nào. Thêm vào đấy, số tiền tích góp của nhà chùa cũng chẳng phải rủng rỉnh gì, tiêu việc này việc khác dần dần đã hầu cạn. Ước hẹn khởi công vào cuối năm 2006 thế rồi lại đành thất hẹn.
Lại 7 năm nữa trôi qua. Mùa xuân năm 2013, khoảng đầu tháng Tư, tôi lại nghe tiếng điện thoại reo. Lại là sư bà Thích Đàm Tâm, giọng nói giờ đây nghe đã mệt nhọc hơn nhiều nhưng niềm lạc quan không giấu được. “Lần này đã có đá tốt, cũng đã có thợ giỏi, những ba người. Tiền lạc quyên cũng đã đủ. Xin GS bắt đầu cho, kẻo tôi già mất rồi, sợ không sống được mấy nỗi nữa”. Tôi cảm động, hẹn với sư tuần sau cho thợ ra tôi thử tay nghề. Và ngay trong tuần đó, tôi điều chỉnh ngày tháng, bổ sung thêm tên người vào bài Hậu ký ở mặt sau tấm bia, cũng theo yêu cầu của tốp thợ, chữa lại một số chữ ở mặt trước, mà khi nhìn kỹ thấy ngòi bút lông của ông Phan Bảo vì sơ ý làm cho nét này hơi nhằng vào nét khác. Công việc chỉnh sửa, tập huấn cho thợ... làm ngày làm đêm, đúng là dứt điểm chỉ trong vòng một tuần.
Ba tháng tròn, thợ làm luôn tay không nghỉ, chạy ra chạy vào để gặp gỡ tôi hai phen. Đến đầu tháng Tám thì sư bà báo cái tin làm tôi nức lòng: “Việc khắc chữ coi như là xong, đang cho xây nhà bia, xin GS cho đoàn vào nghiệm thu sớm”. Còn gì sung sướng hơn!
Ngày 17-8-2013, một đoàn nghiệm thu kiêm tham quan, bao gồm những anh chị em đã bắt tay vào việc từ ngày còn trứng nước: Nguyễn Huệ Chi, Phạm Văn Ánh, Đặng Thị Hảo, Nguyễn Kim Hưng, Quách Thu Hiền; những nhà khoa học tự nhiên và xã hội: Chu Hảo, Lê Minh Hằng, Nguyễn Phạm Hùng, Nguyễn Xuân Diện, Khương Việt Hà, Đào Tiến Thi, Nguyễn Trí Sơn; và cả những nhà văn vốn yêu thích lịch sử thời Lý - Trần: Hoàng Quốc Hải, Vũ Ngọc Tiến; lại có thêm cả một cháu bé con Thạc sĩ Phạm Văn Ánh đi cùng với bố; từ sáng sớm đã cùng nhau lên một chiếc xe Ford tại đường Kim Mã Thượng, Hà Nội, trực chỉ chùa Sùng Nghiêm ở ga Nghĩa Trang, Thanh Hóa, rẽ về hướng Đông 4 km, mà hành tiến. Xe chạy bon bon, chuyện trò rôm rả, và đến hơn 11 giờ đã áp tận cổng chùa. 

 Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh treo cờ để đón đoàn
Anh chị em xuống xe, tiến vào cổng giữa những người đang đón đợi. Không có tiếng reo mừng nào. 5 tiếng đồng hồ là quá lâu đối với họ. Có người chờ không được tưởng đoàn đã bỏ cuộc nên ra về trước, như nhà thư pháp Phan Bảo. Nhưng thôi, đến được đã là may.
Việc đầu tiên mà ai cũng nóng lòng là ào tới phía bên phải ngôi chùa, băng qua giàn giáo, vôi vữa, để ngắm nhìn tấm bia mới. Ôi, thật hả lòng! Hệt như một tấm bia 10 thế kỷ trước, nhưng lại là bia vừa mới...  khai sinh. Mới toanh! Cả mặt trước, mặt sau đều rõ từng nét chữ.
Mặt trước bia
 
 Mặt sau bia
Chỉ có một điều khiến cả người chủ trì lẫn anh em bỏ công phục chế đều băn khoăn, lạ lẫm: đế bia đã thay đổi hoàn toàn mẫu mã so với thiết kế ban đầu. Vì sao? Không ai hiểu nổi. Về sau hỏi ra thì chỉ là bởi khắc theo mô hình của người thiết kế sẽ quá đắt, thời gian hoàn tất cũng sẽ quá lâu, do thế đám thợ khắc và người hưng công đã xúi sư bà “gật” cho họ được tự động thay đi, dùng hoa sen thế vào rồng Lý. Chỉ có vậy thôi! Còn làm sao nữa bây giờ! Mới biết, cái cố tật không tuân thủ nguyên tắc của người Việt, ở đâu, trong bất cứ việc nào cũng thật là khó sửa. Dù kỹ tính đến thế, vậy mà sự đời vẫn không chiều theo ý mình trăm phần trăm được. Âu cũng là định mệnh.
Tất nhiên là phải chụp ảnh. Những tấm ảnh quý giá sẽ lưu lại lâu dài một kỷ niệm đẹp, không bao giờ quên, cho con cháu. Chụp ở cả bia mới và bia cũ.
 Trước tấm bia mới
 Và trước tấm bia cũ
Các bạn nữ cũng tranh thủ chụp một tấm với nhau cho bõ công đến tận đây... “xem Trạng”
Rồi thì người nào vào nhiệm vụ ấy. Ai đọc soát lại bia hãy rướn mắt lên nhìn từng nét khắc xem đúng hay sai. Kết quả, còn tìm ra khá nhiều chữ khắc thiếu nét; lại có những chữ thợ khắc đang phải bỏ trống... Không hề gì. Đây mới là nghiệm thu chứ đâu đã xong. Cứ thu thập lại tất cả, thống kê đầy đủ, rồi sửa luôn một lần, thợ khắc hứa như vậy và Ban quản lý chùa Sùng Nghiêm cũng hứa như vậy. 



 Còn ai không phải đọc, soát, thì vào chùa đàm đạo với sư bà Thích Đàm Tâm. Thay mặt giới khoa học ở Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật đang có một dự án về việc dịch các câu đối hoành phi ở các đền chùa, GS Chu Hảo nói lên nguyện vọng của mình muốn nhà chùa tiếp tục cho khắc bản dịch lên một tấm bia y như tấm bia đã khắc. Sư bà và Ban quản lý ngồi nghe, xem chừng có vẻ chưa mặn mà cho lắm. Có lẽ họ đã thấm mệt.
 GS Chu Hảo đang thuyết phục sư bà và Ban quản lý về việc khắc nốt bản dịch tấm bia
Dầu sao thì cho đến tận lúc ra về, cả đoàn khách và cả nhà chùa cũng vẫn chưa hết hào hứng với những gì đã đạt được. Một hành trình gian nan sánh bằng trèo lên quả núi cao ngất. Trèo suốt trong 21 năm (1992-2013)! Nhưng trèo lên đến đỉnh rồi thì quả thật nhìn lại mới thấy “đã”, thấy bõ cái công, phục chế ra phục chế. Mà điều đáng nói còn là: không tốn lấy một xu tiền công quỹ. Theo ông Phó ban Quản lý dự án trùng tu chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh tên Hải cho biết, thì trong 13 tỷ rưỡi tiền dành cho các hạng mục, không có hạng mục nào gọi là “phục sinh lại tấm bia”, và số tiền hiện còn giữ trong ngân hàng là 5 tỷ rưỡi. Ai nấy nghe đều tươi nét mặt khi bắt tay giã từ.
 Chụp ảnh trước sân chùa khi từ giã
Vâng, đúng thế thật. Nhưng giá mà việc nào cũng làm được như thế. Khắp trong nước không một việc nào có cơ hội giúp cho những chiếc túi riêng căng phồng lên cả nhỉ?! Rồi, trầm ngâm, ngẫm ngợi thêm, thì..., ờ mà sao lạ thế chứ? Đây chẳng phải là một việc trọng đại có giá trị hàng đầu trong việc trùng tu các đền chùa cổ hay sao! Sao lại không chi tiền? Nếu cứ bắt anh trí thức dấn thân tự nguyện làm lấy hết mọi việc mà không nhận đồng nào, hoặc có nhận cũng chẳng bõ bèn, thì chẳng hóa ra... sống bằng “bùi tai” là đủ, “được tiếng khen ho hen chẳng còn” ư? Vậy ra, thân phận người trí thức bao giờ cũng là... “mặc cho thiên hạ đục, một mình ta trong” cơ đấy!
Hà Nội, 2-9-2013
N.H.C.

Không có nhận xét nào: