Lễ Vu lan trong ý niệm dân gian
Theo sách Thích thị yêu lãm, “Vu lan” tiếng Phạn là “Vu lan bồn”
như tiếng Hán nói “Cứu đảo huyền” (cứu người bị treo ngược), nói rộng ra
là những kẻ bị tù tội hoặc khốn cùng, đói khổ, không cơm ăn áo mặc.
Do người xưa quan niệm “âm dương đồng
nhất thể” (dương sao âm vậy), nên bày ra tục cúng kiến để tỏ lòng biết
ơn và báo ơn, chủ yếu là ông bà cha mẹ và những người thân đã qua đời.
Tùy gia thế mà thức cúng có khác nhau, không nhất định, nói chung là có
chi cúng nấy, chay hay mặn đều được.
Cỗ bàn, lễ vật đặt trong nhà. Cũng không
quên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo, đặng “chuyển xuống âm phủ”
cho các đối tượng ấy có mà dùng, mà đút lót cho bọn “đầu trâu mặt ngựa”,
cho rằng có hối lộ như vậy chúng sẽ nương tay khi “hình sự” (như chuyện
thường tình trên dương thế)!
Bọn đầu trâu mặt ngựa đang thi hành án dưới địa ngục
Dịp này người ta cũng không thể không
thương tưởng đến các vong hồn không nơi nương tựa. Họ là những người bỏ
mạng do sơn lam chướng khí, ngộ độc giữa rừng sâu, hoặc bị hùm tha sấu
bắt, núi lở cây đè, hoặc chết trận hay chẳng may bom rơi đạn lạc … nói
chung là chết bờ chết bụi, hồn ma bóng quế vất vưởng do không ai thờ
cúng.
Để tỏ chút lòng trước cảnh tình những kẻ
xấu số, người ta không thể không bày mâm cúng cô hồn, trên ấy chỉ để
vài món vật thực đơn mọn, phổ biến gạo, muối và bộ tam sên gồm 3 miếng
trứng luộc, 3 miếng thịt luộc và 3 con tôm nhỏ, hoặc tép – tượng trưng
cho ba loài: bay trên trời, sống trên mặt đất và lội dưới nước; có người
cúng thêm vài muỗng cháo loãng, đựng bằng những chiếc lá đa, giả là cái
chén. Tất cả đem để bên lề đường chỗ khúc vắng, thắp nén nhang, rồi về,
bỏ đó. Chẳng biết có “ma đói” nào tới “ăn” không, hay chỉ bọn mèo
hoang, chó rong và chuột đồng… thưởng thức!
Chết xuống âm phủ bị treo ngược
Có người đem tất cả để trên một chiếc
tàu nhỏ làm bằng bẹ chuối, gọi tàu tống thả xuống sông cho trôi đi đâu
thì trôi – hiểu là “cô hồn các đảng” sẽ bám theo tàu ấy để cùng nhau
ngỏa nguê. Thế là đã tống chúng đi nơi khác. Rõ ràng, những thức cúng cô
hồn chỉ mang tính tượng trưng, như một sự “nghĩ đến”, nhưng thâm ý của
sự bố thí ấy chẳng qua là “lấy lòng” để các hồn ma vất vưởng ấy thương
tình mà không theo quấy phá, làm cho cả nhà phải triền miên đau ốm, hoặc
bắt hồn con trẻ đem đi…!
Với người Việt, Vu lan còn gọi là “tết
Trung nguyên”. Về tết này, Edmond Nordemann ghi nhận trong Chrestomathie
Annamite, dẫn lại từ bản dịch của Nguyễn Bá Mão, nhan là Quảng tập viêm
văn (An Nam văn tập), Nxb. Hội Nhà văn, 2006: Ngày hôm tết ấy là đầu
nửa năm, cho nên chữ gọi là: “Trung nguyên tiết”. Trong kinh nhà Phật có
dạy rằng: Hôm ấy các quan âm phủ xét những người thuở sống ở dương
gian, người nào ở lành thì phong, người ở ác thì bắt tội; nhưng mà hôm
ấy cũng tha cả, cho phép đi chơi. Bởi thế tục truyền theo chữ, gọi ngày
ấy là ngày “Phong nhân xá tội” (nghĩa là: “Có nhân thì phong, có tội thì
tha”).
Người ta mới nghĩ rằng “Âm phủ sao,
dương gian vậy”. Nhà ai cũng có tổ tiên, nên ngày ấy, ai ai cũng làm cỗ
bàn mấy vàng mã, đồ đạc, quần áo bằng giấy, để cúng, gọi là đồ “Lễ bội”.
(Chuyển dẫn, đây xin mạn phép chỉnh sửa một số từ “sai chính tả” mà
dịch giả đã cố ý giữ đúng y theo chữ dùng của nguyên tác, cho dễ đọc).
Kẻ làm ác chết xuống địa ngục bị hành hình
Lê Quý Đôn, ghi trong Kiến văn tiểu lục:
Sách Mộng hoa lục chép: “Tết Trung nguyên, người ta để đồ mã và áo giấy
ngũ sắc vào cái giường ba chân, như cái đèn nồi, gọi là Vu lan bồn,
treo áo giấy, tiền giấy lên trên rồi đốt”. Lục Du nói: “Tục bấy giờ (đời
Tống), đến ngày rằm tháng bảy làm cỗ chay cúng gia tiên, đan tre làm
chậu, đựng tiền giấy, rồi lấy đóm đốt”.
Theo cách nghĩ của người xưa, đốt giấy
tiền vàng bạc và thả đồ cúng xuống sông là để nhằm chuyển xuống cõi âm
cho các vong hồn thọ hưởng.
Khởi thủy lễ Vu lan là thế, nhưng dần về
sau, theo truyền thuyết Phật giáo: Bồ tát Mục Liên, do quá thương nhớ
mẹ là bà Thanh Đề, đã chết, nhờ có phép thần thông, nên thấy biết mẹ
mình dưới âm phủ đang đang lâm kiếp ngạ quỷ; ông thỉnh ý Phật tổ cách
cứu mẹ. Đức Phật dạy rằng: “Dù ông thần thông quảng đại đến đâu cũng
không đủ sức cứu mẹ ông đâu. Chỉ có một cách nhờ hợp lực của chư tăng
khắp mười phương mới mong giải cứu được. Ngày rằm tháng bảy là ngày
thích hợp để vận động chư tăng, hãy sắm sửa lễ cúng vào ngày đó”. Mục
Liên làm theo lời Phật, bà Thanh Đề được giải thoát. Từ ấy hàng năm cứ
đến ngày rằm tháng bảy hầu hết Phật tử đều làm như vậy để gọi là báo
hiếu.
Bàn thờ cô hồn
Câu chuyện “Mục Liên Thanh Đề” được
truyền tụng từ đời nọ đến đời kia. Thế là nội dung “cứu đảo huyền” của
dân gian trong ngày rằm tháng bảy trở thành ngày lễ Vu Lan của Phật
giáo. Ngày này chư tăng, ni cầu nguyện cho các vong nhân được thoát khỏi
cảnh đọa đày của ba đường ác là "địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh". Những
người tu theo đạo Phật, tin rằng trong kiếp sống ai ăn hiền ở lành thì
khi chết sẽ được tiêu diêu Phật cảnh, trái lại đều phải sa địa ngục, thọ
lãnh những hình phạt rất ghê rợn.
Tuy nhiên do có thuyết cho rằng hàng
năm, cứ đến ngày Vu lan thì ở địa phủ mở toang cửa cho các vong được về
chơi ở cõi dương gian, gọi “Xá tội vong nhân” nên, xuất phát từ lòng
hiếu thảo, con cháu đang sống ở trần gian không thể không lo việc cầu
siêu báo hiếu cho ông bà, cha mẹ hoặc người thân đã qua đời, đồng thời
cũng bày biện mâm cúng với những lễ vật truyền thống hương đăng trà quả,
một số thức món (chay/ mặn), và các đồ dùng bằng vàng mã. Ai nấy phủ
phục khấn khứa, với lời nguyện vái tuỳ phong tục mỗi nơi, mỗi nhà mà
khấn cầu để cung thỉnh mời các vị giáng tới linh tọa, hâm hưởng lễ vật,
chứng minh tấm lòng báo đáp ân thâm, tỏ lòng hiếu kính!
Ngày nay lễ Vu lan không còn giới hạn
trong phạm vi tôn giáo nữa, mà trở thành tín ngưỡng dân gian, cũng vẫn
diễn ra vào ngày rằm tháng bảy hàng năm như từ khởi thủy. Vậy là lễ Vu
lan đã dịch chuyển trong tâm thức con người qua từng thời kỳ.
Gì thì gì, chung quy lễ Vu lan là ngày
thể hiện tấm lòng biết ơn và báo ơn, hiểu là báo hiếu. Nhưng hiếu, phải
đâu chỉ chăm sóc miếng ăn, giấc ngủ và không làm phiền lòng đối với ông
bà cha mẹ, mà đích thực là tất cả, hay nói một cách khác, là những người
vốn có chiều sâu tình cảm thiêng liêng với mình. Bà con thân thuộc, xóm
giềng…? Chưa đủ, mà phải hiểu rộng hơn – tất nhiên tùy vào hoàn cảnh,
điều kiện của từng người. Chẳng hạn đối với người Việt không thể không
“Trung với nước, hiếu với dân”, tức toàn dân tộc vậy.
Xét về ý nghĩa thì lễ Vu lan là một nét
văn hóa đặc sắc dân tộc, hàm súc cao tính nhân bản, rất đáng được giữ
gìn và phát huy. Tuy nhiên và tất nhiên những người quản lý xã hội cũng
như các giới chức lãnh đạo tinh thần cũng nên mạnh dạn phủi bỏ bớt lớp
bụi mê tín thái quá sao cho phù hợp trào lưu tiến hóa thời đại. Đây là
vấn đề vô cùng tế nhị, bởi nó ăn sâu vào tiềm thức dân gian đã từ hàng
nghìn năm nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét