Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

Vua Minh Mạng và tầm nhìn chiến lược về chủ quyền biển đảo


Vua Minh Mạng và tầm nhìn chiến lược 
về chủ quyền biển đảo
Từ xa xưa, các triều đại phong kiến Việt Nam đã kế tiếp nhau thực thi bảo vệ chủ quyền biển đảo, đặc biệt là việc xác lập chủ quyền lãnh thổ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đến đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn, với tầm nhìn chiến lược về an ninh, quốc phòng và kinh tế, các hoạt động này đã được nhà vua nâng lên ở tầm sâu rộng hơn.
Bài 1: PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN, NÂNG CAO SỨC MẠNH QUỐC PHÒNG TRÊN BIỂN
Nhận thức rằng, để có thể bảo vệ vùng biển đảo của đất nước, giữ gìn an ninh vào làm nhiệm vụ bảo vệ ngư dân hoạt động khai thác, đánh bắt thủy hải sản, thu lượm vật dụng và nhất là tiến hành các hoạt động củng cố chủ quyền trên các hải đảo xa xôi trước nạn cướp biển cũng như nguy cơ đe dọa từ tàu thuyền nước ngoài, vua Minh Mạng đã chủ trương phát triển lực lượng thủy quân.
Cách tân công nghệ đóng tàu thuyền theo hướng hiện đại
Ngoài việc cho đóng nhiều tàu chiến, trang bị đại bác theo kiểu cách truyền thống, Minh Mạng còn quan tâm đến những tiến bộ của nền khoa học, kỹ thuật phương Tây áp dụng vào, trong đó có việc cải tiến kỹ thuật đóng thuyền. Không chỉ chú trọng gia tăng số lượng, nhà vua còn cho tăng chủng loại tàu thuyền. Theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, năm Mậu Tý (1828) vua định ngạch các hạng thuyền (ấn định số lượng các loại thuyền cần đóng) ở các địa phương.
Vua Minh Mạng (1820 - 1841)
Tinh thần hướng đến kỹ thuật mới của Minh Mạng được sử sách ghi nhận rõ, ví dụ cuốn Quốc sử di biên cho biết vào tháng 4 năm Canh Dần (1830) “vua nghe nói ngoại quốc có xe hỏa, tàu thủy và nhiều vật lạ, sai lũ (Đặng) Khải đi Lã Tống, Tây dương để mua”.
Quy chế thủy quân cũng được Minh Mạng cải tiến, ông định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền, thống nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà đóng cho chuẩn. Đặc biệt, Minh Mạng đã cho đóng thuyền bọc đồng theo mẫu của người Pháp. Vào năm Nhâm Ngọ (1822), vua cho mua một chiếc thuyền bọc đồng của Pháp đưa về Huế, đặt tên là Điện Dương, để làm mẫu cho các xưởng đóng thuyền tại kinh đô nghiên cứu, triển khai đóng theo mẫu thuyền này.
Sách Khâm định Đại Nam thực lục cho biết tháng 6 năm ấy, vua “sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường coi đóng thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn thành được đặt tên là Thụy Long, sau đó hàng hoạt thuyền bọc đồng được đóng thêm chủ yếu là thuyền chiến, một số là thuyền dùng trong các chuyến công cán ở nước ngoài.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho biết thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau là hạng rất lớn, hạng lớn, hạng vừa và hạng nhỏ.
Ngoài thuyền bọc đồng, năm Mậu Tuất (1838) Minh Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp đem về tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử. Đến tháng 4 năm sau, chiếc tàu máy hơi nước đầu tiên của nước ta đóng xong và chạy thử thành công. Tháng 10 cùng năm đó chiếc tàu máy hơi nước thứ 2 cũng được hoàn thành. Từ đó, vua xây dựng quy thức đóng tàu máy hơi vào năm Canh Tý (1840) với “thân rộng 7 thước 5 tấc, dài trên dưới 4 trượng, nhưng thân không quá sâu, khoảng 1 trượng, để dễ dàng di chuyển trên các dòng sông” (Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ).

Định cờ hiệu tàu thuyền hoạt động và tác chiến trên sông biển
Để nâng cao tính chính quy và thống nhất, vào năm Canh Dần (1830) Minh Mạng đã cho chế và cấp cờ hiệu cho các cơ ở Bắc thành, mỗi cơ sở một lá cờ vuông, mặt cờ đính tên hiệu quân sắc vàng tươi, tiền quân sắc đại hồng, hậu sắc lão lam, tả sắc quan lục và hữu quân sắc bạch tuyết. Đường răng cưa quanh cờ và đại cờ cũng quy định màu rõ ràng, đều xoay quanh ngũ sắc ứng với ngũ phương. Chế cấp cờ cho quân đội là để làm danh hiệu lệnh chỉ huy mà nghiêm chỉnh hàng ngũ.
Năm Qúy Tị (1833) vua lại định thêm số lượng và màu cờ hiệu cho các chiến thuyền ở Bắc Thành để khi có việc, phóng thuyền đi thì ở về phía thuyền kéo cờ để làm tín hiệu. Tiếp theo còn quy định việc treo cờ và dùng cờ hiệu ở các vọng lâu cửa biển. Đồng thời cũng quy định hiệu cờ khi hành quân đường thuỷ: tuỳ theo các hiệu cờ "tam tài" - "thiên địa" - "tứ định" - "ngũ hành" - "tứ tượng" - "giao thái" - "lục hiệp" đưa ra mà viên quản thuyền phải điều khiển cả đoàn thuyền hành quân theo đúng tốc độ và cự ly. Nếu thấy cờ " thống nhất" thì các đại thần phải kịp đến thuyền vua nghe lệnh. Ai làm không đúng hiệu cờ đều bị phạt nặng.
Thao diễn thủy quân, tập trận trên biển, soạn sách thủy chiến
Các đời vua trước, thủy quân thao diễn, luyện tập thường là phép dàn trận, tấn công, tiến lui… Đến thời Minh Mạng, vào năm Canh Tý (1840) cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu tiên được tiến hành. Theo sử sách nhà Nguyễn ghi lại, vua đã định phép thao diễn thuỷ sư như một cuộc tập bắn trên biển với diễn biến như sau:
Một cái bè nổi giả làm hình thuyền, dài độ 3 trượng, ngang hơn 1 trượng, dựng phên nứa làm giả lá buồm được dựng lên. Đặt bè ở biển hoi xa bờ, xung quanh thả neo để khỏi bị trôi. Những thuyền tham gia diễn tập đậu cách bè chừng 50 trượng, tất cả đều chỉnh tề đợi lệnh.
Khi thành Trấn Hải treo cờ đỏ thì cuộc thao diễn bắt đầu, các thuyền đều nhổ neo kéo thuyền chạy về phía bè. Khi đến quãng giữa thì thuyền đến trước sẽ mang súng hồng y lên ngắm vào bè nổi, bắn liền 3 phát rồi tiến quá phía trước bè ngoài 500 trượng lại quay trở về. Các thuyền đi tiếp sau cũng làm như thế, khi trở về thanh thuyền đi trước, khi đến chỗ tiêu chuẩn bè nổi ở trung gian lại bắn súng như trước và chèo thuyền về chỗ bày hàng ban đầu. Lại thuyền buôm tiến lên bắn súng như trước. Bắn xong 3 đợt thì cờ trên thành Trấn Hải hạ xuống, truyền lệnh thu quân, các thuyền cuốn buồm và hạ neo.
Trước đó, vào năm Mậu Tuất (1838) trong một cuộc ngự giá xem thủy quân thao diễn tại kinh đô, vua Minh Mạng ban dụ rằng: “Quân thủy chiếu lệ, mỗi tháng phải tập thủy chiến một lần, phải đến gần bờ phía Nam sông Hương Giang, học phép bắn súng nhỏ, súng lớn cùng cách thức ngồi, đứng, đi, chạy, để biết phương pháp đánh trên bộ”.
Sau đó vua nói với quan Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế về dự định của vua đối với việc soạn sách thủy chiến để làm tài liệu cho quân sĩ học tập. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết: “Binh chế của triều ta, về Tượng trận và bộ trận đều là am nhàn, tinh thục, còn về thủy chiến thì chưa được tinh thục. Trẫm thường hỏi những người phái viên đi công cán các nơi về đều nói là các nước Tây Dương, chỉ có nước Hồng Mao (Anh Cát Lợi – nước Anh) và nước Ma Ny Căng (La Mã – nước Ý) là rất giỏi về thủy chiến, cách cho thuyền chạy.
Hoặc chiến trên chiều gió, hoặc chiến dưới chiều gió, không cách nào là không tiện lợi, nhanh chóng, tùy cơ ứng biến, phóng ra không cùng, thực nên bắt chước. Ôi, Kinh Thi thư là để dạy học trò, sách Võ kinh là để dạy quân lính, từ xưa đến
Trẫm cũng biết qua một vài phần về phương pháp thủy chiến của các nước Tây Dương, trẫm muốn các ngươi trù tính kỹ càng, làm thành quyển sách thủy chiến, giao cho quân lính ngày đêm học tập, đó mới là cách phòng bị trước khi có việc”.
Một năm sau vua còn lệnh thu thập bản đồ thủy chiến của các nước Tây Dương để xem xét, tìm hiểu và truyền cho các quan ở bộ Binh cùng nghiên cứu để làm ra sách thủy chiến đặt tên là sách “Thủy chiến tiên cơ quyết thắng”.
Xây dựng lực lượng bán vũ trang bảo vệ các hải đảo
Là vị Hoàng đế rất coi trọng bảo vệ chủ quyền biển đảo, trong thời gian trị vì của mình vua Minh Mạng đã tích cực củng cố việc xác lập chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như phòng thủ, giữ gìn các hải đảo khác của đất nước.
Ngoài việc tăng cường xây dựng thủy quân, xây dựng phép thủy chiến, nhà vua còn đặt lệ tuần biển để bảo vệ lãnh hải, đánh đuổi cướp biển và kịp thời phát hiện, đối phó với các hành vi xâm lấn có thể xảy ra từ hướng biển. Hoàng đế Minh Mạng cũng là người nhận thấy cần huy động sức mạnh của người dân trong việc gìn giữ chủ quyền biển đảo. Vào năm Bính Thân (1834) ông đã trang bị vũ khí cho các ngư dân, dân chúng sống tại các đảo bãi ngoài biển, đây là một lực lượng bán vũ trang có nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu.
Sách Minh Mạng chính yếu cho biết cụ thể như sau: “Vua lấy cớ các đảo và bãi ở ngoài bể (biển) thuộc các địa phương có nhiều dân cư, chợt gặp giặc bể không lấy gì để chống giữ, mới sai Binh bộ truyền dụ các Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát ở địa phương có hải phận, bắt dân sở tại phải đóng kiểu thuyền đi được nhẹ nhàng, phí tổn do nhà vua cấp phát. Lại cấp binh khí, súng ô sang và đạn dược để phòng bị lúc không ngờ”.

Thuyền chiến, thuyền buồm, thuyền chỉ huy thời triều Nguyễn

Không có nhận xét nào: