Vua Minh Mạng và tầm nhìn chiến lược
về chủ quyền biển đảo
Từ xa xưa, các triều đại phong kiến Việt Nam đã kế tiếp nhau thực
thi bảo vệ chủ quyền biển đảo, đặc biệt là việc xác lập chủ quyền lãnh
thổ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đến đời vua Minh Mạng nhà
Nguyễn, với tầm nhìn chiến lược về an ninh, quốc phòng và kinh tế, các
hoạt động này đã được nhà vua nâng lên ở tầm sâu rộng hơn.
Bài 1: PHÁT TRIỂN THỦY QUÂN, NÂNG CAO SỨC MẠNH QUỐC PHÒNG TRÊN BIỂN
Nhận thức rằng, để có thể bảo vệ vùng
biển đảo của đất nước, giữ gìn an ninh vào làm nhiệm vụ bảo vệ ngư dân
hoạt động khai thác, đánh bắt thủy hải sản, thu lượm vật dụng và nhất là
tiến hành các hoạt động củng cố chủ quyền trên các hải đảo xa xôi trước
nạn cướp biển cũng như nguy cơ đe dọa từ tàu thuyền nước ngoài, vua
Minh Mạng đã chủ trương phát triển lực lượng thủy quân.
Cách tân công nghệ đóng tàu thuyền theo hướng hiện đại
Ngoài việc cho đóng nhiều tàu chiến,
trang bị đại bác theo kiểu cách truyền thống, Minh Mạng còn quan tâm đến
những tiến bộ của nền khoa học, kỹ thuật phương Tây áp dụng vào, trong
đó có việc cải tiến kỹ thuật đóng thuyền. Không chỉ chú trọng gia tăng
số lượng, nhà vua còn cho tăng chủng loại tàu thuyền. Theo sách Khâm
định Đại Nam hội điển sự lệ, năm Mậu Tý (1828) vua định ngạch các hạng
thuyền (ấn định số lượng các loại thuyền cần đóng) ở các địa phương.
Tinh thần hướng đến kỹ thuật mới của
Minh Mạng được sử sách ghi nhận rõ, ví dụ cuốn Quốc sử di biên cho biết
vào tháng 4 năm Canh Dần (1830) “vua nghe nói ngoại quốc có xe hỏa, tàu
thủy và nhiều vật lạ, sai lũ (Đặng) Khải đi Lã Tống, Tây dương để mua”.
Quy chế thủy quân cũng được Minh Mạng
cải tiến, ông định kích thước và kiểu dáng cho từng hạng thuyền, thống
nhất trong phạm vi cả nước để các xưởng thuyền theo các quy thức đó mà
đóng cho chuẩn. Đặc biệt, Minh Mạng đã cho đóng thuyền bọc đồng theo mẫu
của người Pháp. Vào năm Nhâm Ngọ (1822), vua cho mua một chiếc thuyền
bọc đồng của Pháp đưa về Huế, đặt tên là Điện Dương, để làm mẫu cho các
xưởng đóng thuyền tại kinh đô nghiên cứu, triển khai đóng theo mẫu
thuyền này.
Sách Khâm định Đại Nam thực lục cho biết
tháng 6 năm ấy, vua “sai Thống chế thủy sư Phan Văn Trường coi đóng
thuyền hiệu theo kiểu Tây dương”. Chiếc thuyền bọc đồng đầu tiên hoàn
thành được đặt tên là Thụy Long, sau đó hàng hoạt thuyền bọc đồng được
đóng thêm chủ yếu là thuyền chiến, một số là thuyền dùng trong các
chuyến công cán ở nước ngoài.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ
cho biết thuyền bọc đồng được phân thành 4 hạng khác nhau là hạng rất
lớn, hạng lớn, hạng vừa và hạng nhỏ.
Ngoài thuyền bọc đồng, năm Mậu Tuất
(1838) Minh Mạng cho mua một chiếc tàu máy hơi nước cũ của Pháp đem về
tháo ra nghiên cứu để lấy mẫu đóng thử. Đến tháng 4 năm sau, chiếc tàu
máy hơi nước đầu tiên của nước ta đóng xong và chạy thử thành công.
Tháng 10 cùng năm đó chiếc tàu máy hơi nước thứ 2 cũng được hoàn thành.
Từ đó, vua xây dựng quy thức đóng tàu máy hơi vào năm Canh Tý (1840) với
“thân rộng 7 thước 5 tấc, dài trên dưới 4 trượng, nhưng thân không quá
sâu, khoảng 1 trượng, để dễ dàng di chuyển trên các dòng sông” (Sách
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ).
Định cờ hiệu tàu thuyền hoạt động và tác chiến trên sông biển
Để nâng cao tính chính quy và thống
nhất, vào năm Canh Dần (1830) Minh Mạng đã cho chế và cấp cờ hiệu cho
các cơ ở Bắc thành, mỗi cơ sở một lá cờ vuông, mặt cờ đính tên hiệu quân
sắc vàng tươi, tiền quân sắc đại hồng, hậu sắc lão lam, tả sắc quan lục
và hữu quân sắc bạch tuyết. Đường răng cưa quanh cờ và đại cờ cũng quy
định màu rõ ràng, đều xoay quanh ngũ sắc ứng với ngũ phương. Chế cấp cờ
cho quân đội là để làm danh hiệu lệnh chỉ huy mà nghiêm chỉnh hàng ngũ.
Năm Qúy Tị (1833) vua lại định thêm số
lượng và màu cờ hiệu cho các chiến thuyền ở Bắc Thành để khi có việc,
phóng thuyền đi thì ở về phía thuyền kéo cờ để làm tín hiệu. Tiếp theo
còn quy định việc treo cờ và dùng cờ hiệu ở các vọng lâu cửa biển. Đồng
thời cũng quy định hiệu cờ khi hành quân đường thuỷ: tuỳ theo các hiệu
cờ "tam tài" - "thiên địa" - "tứ định" - "ngũ hành" - "tứ tượng" - "giao
thái" - "lục hiệp" đưa ra mà viên quản thuyền phải điều khiển cả đoàn
thuyền hành quân theo đúng tốc độ và cự ly. Nếu thấy cờ " thống nhất"
thì các đại thần phải kịp đến thuyền vua nghe lệnh. Ai làm không đúng
hiệu cờ đều bị phạt nặng.
Thao diễn thủy quân, tập trận trên biển, soạn sách thủy chiến
Các đời vua trước, thủy quân thao diễn,
luyện tập thường là phép dàn trận, tấn công, tiến lui… Đến thời Minh
Mạng, vào năm Canh Tý (1840) cuộc tập trận có mục tiêu giả định lần đầu
tiên được tiến hành. Theo sử sách nhà Nguyễn ghi lại, vua đã định phép
thao diễn thuỷ sư như một cuộc tập bắn trên biển với diễn biến như sau:
Một cái bè nổi giả làm hình thuyền, dài
độ 3 trượng, ngang hơn 1 trượng, dựng phên nứa làm giả lá buồm được dựng
lên. Đặt bè ở biển hoi xa bờ, xung quanh thả neo để khỏi bị trôi. Những
thuyền tham gia diễn tập đậu cách bè chừng 50 trượng, tất cả đều chỉnh
tề đợi lệnh.
Khi thành Trấn Hải treo cờ đỏ thì cuộc
thao diễn bắt đầu, các thuyền đều nhổ neo kéo thuyền chạy về phía bè.
Khi đến quãng giữa thì thuyền đến trước sẽ mang súng hồng y lên ngắm vào
bè nổi, bắn liền 3 phát rồi tiến quá phía trước bè ngoài 500 trượng lại
quay trở về. Các thuyền đi tiếp sau cũng làm như thế, khi trở về thanh
thuyền đi trước, khi đến chỗ tiêu chuẩn bè nổi ở trung gian lại bắn súng
như trước và chèo thuyền về chỗ bày hàng ban đầu. Lại thuyền buôm tiến
lên bắn súng như trước. Bắn xong 3 đợt thì cờ trên thành Trấn Hải hạ
xuống, truyền lệnh thu quân, các thuyền cuốn buồm và hạ neo.
Trước đó, vào năm Mậu Tuất (1838) trong
một cuộc ngự giá xem thủy quân thao diễn tại kinh đô, vua Minh Mạng ban
dụ rằng: “Quân thủy chiếu lệ, mỗi tháng phải tập thủy chiến một lần,
phải đến gần bờ phía Nam sông Hương Giang, học phép bắn súng nhỏ, súng
lớn cùng cách thức ngồi, đứng, đi, chạy, để biết phương pháp đánh trên
bộ”.
Sau đó vua nói với quan Binh bộ Thượng
thư Trương Đăng Quế về dự định của vua đối với việc soạn sách thủy chiến
để làm tài liệu cho quân sĩ học tập. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết:
“Binh chế của triều ta, về Tượng trận và bộ trận đều là am nhàn, tinh
thục, còn về thủy chiến thì chưa được tinh thục. Trẫm thường hỏi những
người phái viên đi công cán các nơi về đều nói là các nước Tây Dương,
chỉ có nước Hồng Mao (Anh Cát Lợi – nước Anh) và nước Ma Ny Căng (La Mã –
nước Ý) là rất giỏi về thủy chiến, cách cho thuyền chạy.
Hoặc chiến trên chiều gió, hoặc chiến
dưới chiều gió, không cách nào là không tiện lợi, nhanh chóng, tùy cơ
ứng biến, phóng ra không cùng, thực nên bắt chước. Ôi, Kinh Thi thư là
để dạy học trò, sách Võ kinh là để dạy quân lính, từ xưa đến
Trẫm cũng biết qua một vài phần về
phương pháp thủy chiến của các nước Tây Dương, trẫm muốn các ngươi trù
tính kỹ càng, làm thành quyển sách thủy chiến, giao cho quân lính ngày
đêm học tập, đó mới là cách phòng bị trước khi có việc”.
Một năm sau vua còn lệnh thu thập bản đồ
thủy chiến của các nước Tây Dương để xem xét, tìm hiểu và truyền cho
các quan ở bộ Binh cùng nghiên cứu để làm ra sách thủy chiến đặt tên là
sách “Thủy chiến tiên cơ quyết thắng”.
Xây dựng lực lượng bán vũ trang bảo vệ các hải đảo
Là vị Hoàng đế rất coi trọng bảo vệ chủ quyền biển đảo, trong thời gian
trị vì của mình vua Minh Mạng đã tích cực củng cố việc xác lập chủ quyền
tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cũng như phòng thủ, giữ gìn các
hải đảo khác của đất nước.
Ngoài việc tăng cường xây dựng thủy
quân, xây dựng phép thủy chiến, nhà vua còn đặt lệ tuần biển để bảo vệ
lãnh hải, đánh đuổi cướp biển và kịp thời phát hiện, đối phó với các
hành vi xâm lấn có thể xảy ra từ hướng biển. Hoàng đế Minh Mạng cũng là
người nhận thấy cần huy động sức mạnh của người dân trong việc gìn giữ
chủ quyền biển đảo. Vào năm Bính Thân (1834) ông đã trang bị vũ khí cho
các ngư dân, dân chúng sống tại các đảo bãi ngoài biển, đây là một lực
lượng bán vũ trang có nhiệm vụ vừa sản xuất, vừa chiến đấu.
Sách Minh Mạng chính yếu cho biết cụ
thể như sau: “Vua lấy cớ các đảo và bãi ở ngoài bể (biển) thuộc các địa
phương có nhiều dân cư, chợt gặp giặc bể không lấy gì để chống giữ, mới
sai Binh bộ truyền dụ các Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát ở địa
phương có hải phận, bắt dân sở tại phải đóng kiểu thuyền đi được nhẹ
nhàng, phí tổn do nhà vua cấp phát. Lại cấp binh khí, súng ô sang và đạn
dược để phòng bị lúc không ngờ”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét