Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

Nghĩ về Kẻ sĩ.

Nghĩ về Kẻ sĩ. 
Trịnh Kim Thuấn
Nguyễn Công Trứ
(1778 -1858)
Kẻ sĩ mà còn quyến luyến sự yên vui thuận tiện cho xác thịt thì tâm lụy chí hèn không đáng được gọi là kẻ sĩ.  MẠNH TỬ

Thời còn đi học, khi học đến hai nhà thơ thời vua Tự Đức là ông Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát thì tôi rất thích. Về tài làm thơ của hai ông nầy thì khỏi bàn. Nguyễn Công Trứ là một ông quan giỏi, văn võ song toàn, một nhà kinh tế và nông nghiệp nữa với các bài thơ hay  của ông mà tôi được học, như Kẽ Sĩ, Chí Làm Trai... Cao Bá Quát thì lại đặc biệt hơn. Vua Tự Đức từng nói:


                                  Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán.
                                  Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường

Còn nhớ, khi học tới ông Nguyễn Công Trứ, tôi rất  thích 2 bài: Kẻ Sĩ và Chí Làm Trai.

“...Nước nhà yên thì sĩ được thung dung 
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch 

Dăm ba đứa tiểu đồng lếch thếch 

Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn 

Này thơ, này rượu, này địch, này đàn 
Đồ thích chí chất đầy trong một túi. 
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới 
Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh 

Này này sĩ mới hoàn danh”

Trích Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ.

Khi ngồi trên ghế nhà trường, học bài nầy bọn trẻ chúng tôi rất hào hứng.

Nhưng số phận của Nguyễn Công Trứ lúc chưa thành đạt lại rất nghèo, nhưng ông vẫn vui vẽ sống, ông kể lại cái ở, cái mặc và cái ăn như thế nầy :

Bốn vách tường mo,

Ba gian nhà cỏ .

Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.

(Hàn nho phong vị phú – Nguyễn Công Trứ).

Ông Cao Bá Quát, cùng thời, cũng nghèo như thế, nhưng ông lại tả như thế nầy:

Cao Bá Quát
(1809 - 1855)
Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp, ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa; 

Đèn cỏn con gon chiếc chiếu lôi thôi, đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ. 

Áo Trọng Do bạc thếch, dãi xuân thu cho đượm sắc cần lao; 

Cơm Phiến Mẫu hẩm sì, đói tuế nguyệt phải ngậm ngùi tân khổ.

Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy ? 
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ. 

(Tài tử đa cùng phú – Cao Bá Quát)

Xem ra thanh thoát, nhưng u uất quá!

Mấy năm sau, khi lên cấp 3 (Trung học đệ nhị cấp ) mới thấy cái thâm thúy của thơ Cao Bá Quát qua bài :
                                                    
 Uống rượu tiêu sầu

Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy

Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười

Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo
Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu 
Trầm tư bách kế bất như nhàn
Dưới thiều quang thấp thoáng bóng nam quan
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ
Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ
Mảnh hình hài không có, có không
Lọ là thiên tứ, vạn chung.

Giờ đã lớn tuổi, bạc tóc mới hiểu được: Đưa tiễn một cuộc đời chỉ có rượu. Suy nghĩ một trăm kế không gì hơn là nhàn. Dù biết: Nhàn là nhất rồi, nhưng mấy ai đã làm được đâu. Danh và Lợi cứ bám và quyện lấy con người ta. Cuối đời của ông cũng là thế.
                                          Ba hồi chuông giục, đù cha kiếp,
                                          Một nhát gươm đưa, đéo mẹ đời. ...
Có câu Văn là Người, phải chăng số phận văn chương đã ám vào thân phận Cao Bá Quát. Số phận của ông sau nầy thật bi thảm. Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương  thất bại, ông bị buộc tội, bị xử “tru di tam tộc”.

Trước năm 1975, ở miền Nam có đề thi Tú Tài phần 1 rất hay: Anh (chị) bình luận câu: Cao Bá Quát là người làm chết đi dòng họ Cao cũng là người làm sống mãi dòng họ Cao.

Có một truyện ngắn rất hay, rất nổi tiếng của Nguyễn Tuân: Chữ của người tử tù, nhân vật là Huấn Cao, có phải là Cao bá Quát ?

Tiếc thay, mấy mươi năm qua, kể từ thế kỷ trước, kẻ sĩ không được xem trọng. Trong cuộc Cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã đưa ra khẩu hiệu: “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rể!”. Người ta tôn vinh những người xuất thân từ “bần, cố nông”, từ thành phần giai cấp “khố rách áo ôm”, mặc cho thiểu năng trí tuệ, mặc cho không biết “một chữ cắn làm đôi”! Chính vì thế mà đã xảy ra biết bao bi kịch xã hội:

Từ năm 1945 đến 1954 đã có những học giả, những  nhà văn nổi tiếng đã bị loại như sau:

Tôn Nữ Thu Hồng (1922 – 1948), Ngô Tất Tố (1894 – 1954), Nhượng Tống (1904 – 1949), Thiều Chửu (1902 -1954), Dương Quảng Hàm (1898 – 1948), Lan Khai (1906 – 1945) , Khái Hưng (1896 – 1947), Phạm Quỳnh (1892 – 1945), Tạ Thu Thâu (1906 – 1946)  Theo: “Những cái chết tức tưởi của nhà văn – Chuyện bây giờ mới kể của Thái Doãn Hiểu”. trannhuong.com.

Nhà văn nổi tiếng Vũ Trọng Phụng, chết trước 1945, số phận của ông vẫn không thoát khỏi nghiệt ngã :
"…………………..
phần thắng nghiêng về phe chống đối Vũ Trọng Phụng đầy quyền lực, và các tác phẩm của ông đã bị rút khỏi các giá sách và bị cấm ở miền Bắc Việt Nam trong hơn hai mươi năm.
…………………………………………………….
Không phải ngẫu nhiên mà Vũ Trọng Phụng bị cấm trong suốt hai mươi lăm năm, kể từ cuối thập niên 1950 cho đến đầu thập niên 1980, thời kỳ đánh dấu đỉnh cao của sự phân cực này. Để kết thúc bằng giọng lạc quan hơn, theo tôi, sự phổ biến trỗi dậy của Vũ Trọng Phụng kể từ khi việc cấm đoán tác phẩm của ông được bãi bỏ vào giữa thập niên 1980 cho thấy tính lâu bền đáng ngạc nhiên của một truyền thống cộng hòa ở người Việt tuy còn sơ khai nhưng đã rõ nét.

(Trích bài thuyết trình của GS.TS Peter Zinoman - khoa lịch sử, Đại học Berkeley. California, Hoa Kỳ -  do Đại học Thái Nguyên Việt Nam tổ chức ngày 20/12/2013 (theo TN.c).

Luật gia Nguyễn Mạnh Tường phải sống trong cô lập và đói lạnh, Triết gia Trần Đức Thảo  cố co mình lại mà sống …

Gần nữa thì có các nhà văn  Nguyễn Hữu Đang, Phùng Quán, Lê Đạt, Trần Dần… trong nhóm Nhân Văn – Giai phẩm, mặc dù đã được tha và phục hồi nhưng cuối đời sống trong nghèo khổ. Ngoại trừ nhà thơ Hữu Loan, nhờ bán được bản quyền bài thơ khóc vợ  “Màu Tím Hoa Sim”, có ít tiền xoay sở, cất lại nhà .. dù đói nghèo nhưng họ giữ vững được khí tiết của kẽ sĩ, để lại tiếng thơm cho muôn đời.

Đó là những KẺ SĨ  thời xưa tôi biết.

 Sau nầy, nhà văn Nguyễn Khải, một nhà văn thành đạt, có vai vế trên văn đàn, cây đa, cây đề … cuối đời bộc bạch qua các tự truyện: Gặp gỡ cuối năm và Đi tìm cái tôi đã mất. Ông đã tự kiểm điểm mình, tự trách mình:

“Nguyễn Khải bảo tôi: “Nhà văn Việt Nam bị ba đứa nó khinh, thứ nhất là thằng lãnh đạo nó khinh, thứ hai là độc giả nó khinh, thứ ba là đêm nằm vắt tay lên trán… mình lại tự khinh mình!”.

“Mình lại tự khinh mình” thì đau quá!!! Vì thế, tôi không lấy gì làm lạ, không ngạc nhiên tý nào khi đọc bài bút ký chính trị  “Đi tìm cái tôi đã mất” của ông sau ngày ông từ trần ít lâu. Một con người mang tâm trạng suốt đời như thế mà vẫn phải sống, vẫn phải viết để tồn tại thì nhất định sẽ phải để lại một cái gì trước khi ra đi, để “cáo lỗi” với hậu thế. Nguyễn Khải chính là nỗi đau đớn trên hành tinh này của một người cầm bút và nhất định ông phải đi tìm “cái tôi” đã mất ở thế giới bên kia".(Bài “Ngày Xuân nhớ Nguyễn Khải" của Lê Phú Khải – Tn.c)

Một Hoàng Minh Tường với tiểu thuyết Thời của Thánh thần cũng bị thu hồi. Tự kể của nhà văn Tạ Hữu Đỉnh về  “Nỗi oan của 1 tập sách” . Quyển Năm 2000 chuyện bây giờ mới kể của Bùi Ngọc Tấn bị cấm xuất bản. Quyển Rồng Đá của Lê Mai – Vũ Ngọc Tiến bị thu hồi… nếu kể về các Kẻ Sĩ chân chính thời nay lâm vào các hoàn cảnh trên cũng nhiều…

Nhưng trái lại, ngày nay có không ít kẽ khoác áo, đeo mặt nạ Kẽ sĩ, nghèo cũng có, giàu cũng nhiều, nhưng tư duy và hành động của họ đã tự làm rơi cái mặt nạ, khiến gây cười cho thiên hạ, ví như:

Ông "Tiến sĩ - nhà thơ" Hoàng Quang Thuận mà Đỗ Quang gọi là "tiến sĩ thi thủm".  Chỉ một đêm, ông rặn được hàng trăm bài "thơ thần nhập", làm thành tập thơ có chân trong kỹ lục Giunesses Việt Nam và thế giới, được gởi dự giải Nobel văn chương Thụy Điển?

Ông Thạc sĩ Lăng Tần - nghị viên Hoàng Hữu Phước với: Kế sách liên hoành giúp nhà độc tài Saddam Hussein nước IRAQ bình thiên hạ. Và ông còn nổi tiếng khi viết bài luận "Tứ Đại Ngu" để thóa mạ đồng liêu là nhà sử học Dương Trung Quốc...

Gần đây là ông Nguyễn Chí Hiếu, TBT báo Văn nghệ TP.HCM cùng ông Đông La  mần một tuyệt chiêu là: “Hàm phẫn phún nhân, tiên ô tự khẩu" vào nhà văn Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo... Họ không hề biết đến câu: "Hữu xạ tự nhiên hương"? Trí tuệ và nhân cách sừng sững như nhà văn Nguyên Ngọc thì họ bôi làm sao được xấu?! Nói thật, tài năng và đức độ của họ làm sao xách dép được cho nhà văn Nguyên Ngọc?...

Đúng là, thời  nào cũng thế, kẽ tốt người xấu… tâm địa khó lường, tiếc thay một số người ngày nay vỗ ngực xưng là kẽ sĩ nhưng lại không có TÂM, làm cho lộn tùng phèo cả...

Thôi thì bắt chước theo ông Nguyễn Đình Chiểu, cũng là một  KẺ SĨ   thanh bạch mà lại mù lòa nữa :
                              Thà đui mà giữ đạo nhà
                              Còn hơn có mắt ông cha không thờ .

26/02/2014-TKT
Tác giả gửi PNTB - 
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của riêng tác giả.

Không có nhận xét nào: