Nghĩ về Kẻ sĩ.
Trịnh Kim Thuấn
Nguyễn Công Trứ (1778 -1858) |
Kẻ sĩ mà còn quyến luyến
sự yên vui thuận tiện cho xác thịt thì tâm lụy chí hèn không đáng được gọi là
kẻ sĩ. MẠNH TỬ
Thời còn đi học, khi học đến hai nhà thơ thời vua Tự Đức là ông Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát thì tôi rất thích. Về tài làm thơ của hai ông nầy thì khỏi bàn. Nguyễn Công Trứ là một ông quan giỏi, văn võ song toàn, một nhà kinh tế và nông nghiệp nữa với các bài thơ hay của ông mà tôi được học, như Kẽ Sĩ, Chí Làm Trai... Cao Bá Quát thì lại đặc biệt hơn. Vua Tự Đức từng nói:
Văn
như Siêu, Quát vô Tiền Hán.
Thi đáo Tùng
Tuy thất Thịnh Đường
Còn nhớ, khi học tới ông
Nguyễn Công Trứ, tôi rất thích 2 bài: Kẻ
Sĩ và Chí Làm Trai.
“...Nước nhà yên thì sĩ được thung dung
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Dăm ba đứa tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Này thơ, này rượu, này địch, này đàn
Đồ thích chí chất đầy trong một túi.
Mặc ai hỏi, mặc ai không hỏi tới
Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thanh
Này này sĩ mới hoàn danh”
Trích Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ.
Khi ngồi trên ghế nhà trường,
học bài nầy bọn trẻ chúng tôi rất hào hứng.
Nhưng số phận của Nguyễn Công
Trứ lúc chưa thành đạt lại rất nghèo, nhưng ông vẫn vui vẽ sống, ông kể lại cái
ở, cái mặc và cái ăn như thế nầy :
Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ .
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió .
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà , con mèo ngấp ngó .
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
(Hàn nho phong vị phú – Nguyễn Công Trứ).
Ông Cao Bá Quát, cùng thời, cũng nghèo như thế, nhưng ông lại tả như thế nầy:
Cao Bá Quát (1809 - 1855) |
Lều nho nhỏ kéo tấm tranh lướp tướp,
ngày thê lương hạt nặng giọt mưa sa;
Đèn cỏn con gon chiếc chiếu lôi thôi,
đêm tịch mịch soi chung vừng trăng tỏ.
Áo Trọng Do bạc thếch, dãi xuân thu cho đượm sắc cần lao;
Cơm Phiến Mẫu hẩm sì, đói tuế nguyệt phải ngậm ngùi tân khổ.
Gió trăng rơi rụng, để cái quyên gầy ?
Sương tuyết hắt hiu, làm con nhạn võ.
(Tài tử
đa cùng phú – Cao Bá Quát)
Xem ra thanh thoát, nhưng u
uất quá!
Mấy năm sau, khi lên cấp 3
(Trung học đệ nhị cấp ) mới thấy cái thâm thúy của thơ Cao Bá Quát qua bài :
Uống rượu tiêu sầu
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
Tiêu khiển một vài chung lếu láo
Ðoạn tống nhất sinh duy hữu tửu
Trầm tư bách kế bất như nhàn
Dưới thiều quang thấp thoáng bóng nam quan
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ
Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ
Mảnh hình hài không có, có không
Lọ là thiên tứ, vạn chung.
Giờ đã lớn tuổi, bạc tóc mới hiểu được: Đưa tiễn một cuộc đời chỉ
có rượu. Suy nghĩ một trăm kế không gì hơn là nhàn. Dù biết: Nhàn là nhất rồi, nhưng
mấy ai đã làm được đâu. Danh và Lợi cứ bám và quyện lấy con người ta. Cuối đời
của ông cũng là thế.
Ba
hồi chuông giục, đù cha kiếp,
Một nhát gươm đưa, đéo mẹ đời. ...
Có câu Văn là Người, phải chăng số phận văn chương đã ám vào thân phận Cao
Bá Quát. Số phận của ông sau nầy thật bi thảm. Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương thất bại, ông bị buộc tội, bị xử “tru di tam
tộc”.
Trước
năm 1975, ở miền Nam
có đề thi Tú Tài phần 1 rất hay: Anh
(chị) bình luận câu: Cao Bá Quát là người làm chết đi dòng họ Cao cũng là người
làm sống mãi dòng họ Cao.
Có một truyện ngắn rất hay,
rất nổi tiếng của Nguyễn Tuân: Chữ của người tử tù, nhân vật là Huấn Cao, có
phải là Cao bá Quát ?
Tiếc thay, mấy mươi năm qua,
kể từ thế kỷ trước, kẻ sĩ không được xem trọng. Trong cuộc Cải cách ruộng đất ở
miền Bắc đã đưa ra khẩu hiệu: “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc, trốc tận rể!”.
Người ta tôn vinh những người xuất thân từ “bần, cố nông”, từ thành phần giai
cấp “khố rách áo ôm”, mặc cho thiểu năng trí tuệ, mặc cho không biết “một chữ
cắn làm đôi”! Chính vì thế mà đã xảy ra biết bao bi kịch xã hội:
Từ năm 1945 đến 1954 đã có
những học giả, những nhà văn nổi tiếng
đã bị loại như sau:
Tôn Nữ Thu Hồng (1922 –
1948), Ngô Tất Tố (1894 – 1954), Nhượng Tống (1904 – 1949), Thiều Chửu (1902
-1954), Dương Quảng Hàm (1898 – 1948), Lan Khai (1906 – 1945) , Khái Hưng (1896
– 1947), Phạm Quỳnh (1892 – 1945), Tạ Thu Thâu (1906 – 1946) Theo: “Những
cái chết tức tưởi của nhà văn – Chuyện bây giờ mới kể của Thái Doãn Hiểu”. trannhuong.com.
Nhà văn nổi tiếng Vũ Trọng
Phụng, chết trước 1945, số phận của ông vẫn không thoát khỏi nghiệt ngã :
"…………………..
phần thắng nghiêng về phe
chống đối Vũ Trọng Phụng đầy quyền lực, và các tác phẩm của ông đã bị rút khỏi
các giá sách và bị cấm ở miền Bắc Việt Nam trong hơn hai mươi năm.
…………………………………………………….
Không phải ngẫu nhiên mà
Vũ Trọng Phụng bị cấm trong suốt hai mươi lăm năm, kể từ cuối thập niên 1950
cho đến đầu thập niên 1980, thời kỳ đánh dấu đỉnh cao của sự phân cực này. Để
kết thúc bằng giọng lạc quan hơn, theo tôi, sự phổ biến trỗi dậy của Vũ Trọng
Phụng kể từ khi việc cấm đoán tác phẩm của ông được bãi bỏ vào giữa thập niên
1980 cho thấy tính lâu bền đáng ngạc nhiên của một truyền thống cộng hòa ở
người Việt tuy còn sơ khai nhưng đã rõ nét.
(Trích bài thuyết trình của
GS.TS Peter Zinoman - khoa lịch sử, Đại học Berkeley. California,
Hoa Kỳ - do Đại học Thái Nguyên Việt Nam tổ
chức ngày 20/12/2013 (theo TN.c).
Luật gia Nguyễn Mạnh Tường
phải sống trong cô lập và đói lạnh, Triết gia Trần Đức Thảo cố co mình lại mà sống …
Gần
nữa thì có các nhà văn Nguyễn Hữu Đang,
Phùng Quán, Lê Đạt, Trần Dần… trong nhóm Nhân Văn – Giai phẩm, mặc dù đã được
tha và phục hồi nhưng cuối đời sống trong nghèo khổ. Ngoại trừ nhà thơ Hữu
Loan, nhờ bán được bản quyền bài thơ khóc vợ
“Màu Tím Hoa Sim”, có ít tiền xoay sở, cất lại nhà .. dù đói nghèo nhưng
họ giữ vững được khí tiết của kẽ sĩ, để lại tiếng thơm cho muôn đời.
Đó
là những KẺ SĨ thời xưa tôi biết.
Sau nầy, nhà văn Nguyễn Khải, một nhà văn
thành đạt, có vai vế trên văn đàn, cây đa, cây đề … cuối đời bộc bạch qua các
tự truyện: Gặp gỡ cuối năm và Đi tìm cái
tôi đã mất. Ông đã tự kiểm điểm mình, tự trách mình:
“Nguyễn Khải bảo tôi: “Nhà
văn Việt Nam
bị ba đứa nó khinh, thứ nhất là thằng lãnh đạo nó khinh, thứ hai là độc giả nó
khinh, thứ ba là đêm nằm vắt tay lên trán… mình lại tự khinh mình!”.
“Mình lại tự khinh mình” thì
đau quá!!! Vì thế, tôi không lấy gì làm lạ, không ngạc nhiên tý nào khi đọc bài
bút ký chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” của ông sau ngày ông từ trần ít lâu. Một
con người mang tâm trạng suốt đời như thế mà vẫn phải sống, vẫn phải viết để
tồn tại thì nhất định sẽ phải để lại một cái gì trước khi ra đi, để “cáo lỗi”
với hậu thế. Nguyễn Khải chính là nỗi đau đớn trên hành tinh này của một người
cầm bút và nhất định ông phải đi tìm “cái tôi” đã mất ở thế giới bên kia".(Bài “Ngày Xuân nhớ Nguyễn Khải" của Lê Phú
Khải – Tn.c)
Một Hoàng Minh Tường với tiểu thuyết Thời
của Thánh thần cũng bị thu hồi. Tự kể của nhà văn Tạ Hữu Đỉnh về “Nỗi oan của 1 tập sách” . Quyển Năm 2000 chuyện bây giờ mới kể
của Bùi Ngọc Tấn bị cấm xuất bản.
Quyển Rồng Đá của Lê Mai – Vũ Ngọc Tiến bị thu hồi… nếu
kể về các Kẻ Sĩ chân chính thời nay lâm vào các hoàn cảnh trên cũng nhiều…
Nhưng trái lại, ngày
nay có không ít kẽ khoác áo, đeo mặt nạ Kẽ sĩ, nghèo cũng có, giàu cũng nhiều, nhưng tư duy và hành động của họ đã tự làm rơi cái mặt nạ, khiến gây cười cho thiên hạ, ví như:
Ông "Tiến sĩ - nhà thơ" Hoàng Quang Thuận mà Đỗ Quang gọi là "tiến sĩ thi thủm". Chỉ một đêm, ông rặn được hàng trăm bài "thơ thần nhập",
làm thành tập thơ có chân trong kỹ lục Giunesses Việt Nam và thế giới, được gởi dự giải Nobel văn chương Thụy Điển?
Ông
Thạc sĩ Lăng Tần - nghị viên Hoàng Hữu Phước với: Kế sách liên hoành giúp nhà
độc tài Saddam Hussein nước IRAQ
bình thiên hạ. Và ông còn nổi tiếng khi viết bài luận "Tứ Đại Ngu" để thóa mạ
đồng liêu là nhà sử học Dương Trung Quốc...
Gần
đây là ông Nguyễn Chí Hiếu, TBT báo Văn nghệ TP.HCM cùng ông Đông La
mần một tuyệt chiêu là: “Hàm phẫn phún nhân,
tiên ô tự khẩu" vào nhà văn Nguyên Ngọc, Trần Mạnh Hảo... Họ không hề
biết đến câu: "Hữu xạ tự nhiên hương"? Trí tuệ và nhân cách sừng sững
như nhà văn Nguyên Ngọc thì họ bôi làm sao được xấu?! Nói thật, tài năng
và đức độ của họ làm sao xách dép được cho nhà văn Nguyên Ngọc?...
Đúng là, thời nào cũng thế, kẽ tốt người xấu… tâm địa khó
lường, tiếc thay một số người ngày nay vỗ ngực xưng là kẽ sĩ nhưng lại không có TÂM, làm cho lộn tùng phèo cả...
Thôi thì bắt
chước theo ông Nguyễn Đình Chiểu, cũng là một
KẺ SĨ thanh bạch mà lại mù lòa nữa
:
Thà đui mà giữ
đạo nhà
Còn hơn có mắt
ông cha không thờ .
26/02/2014-TKT
Tác giả gửi PNTB -
Bài viết thể hiện văn phong và quan điểm của riêng tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét