Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Bu mình

Bu mình
 N.N.D
 
Người Vĩnh Bảo gọi mẹ là "BU" hoặc "U". Đã nhiều lần tôi được gặp bà hồi còn học cấp 2vớí Dương. Nhiều lần, tôi theo Dương từ phố huyện xuống tận Cổ Đẳng, xã Tân Liên cách  nhà đến 5-7 cây sô để... "chơi".
Hình ảnh một người đàn bà mảnh khảnh một tay dắt đứa con gái (cô Liệu bây giờ), tay ôm đứa con còn nhỏ ngồi đun bếp nấu cơm bằng nắm lá chuối khô,hay mấy cành tre rào... Ấy vậy mà bên canh bà vẫn là một cuốn sách. Thời đó, sách in hiếm, giấy nâu, chữ in cũng lèm nhèm lắm. Bà "bu" của bạn tôi "đói" chữ và "thèm đọc" từ hồi ấy. Thảo nào, khi bà ra đi vẫn có cuốn truyên trong tay.
Một lần lên Phố Lu thăm vợ chồng Dương. Tôi "bắt" Dương đưa vợ chồng tôi ra tận nơi ông bà yên nghỉ để thắp một tuần nhang kính viễng ông bà.
Xin dùng mấy dòng chữ thay nén hương trước mộ bà. Cầu cho vong linh bà siêu thoat và thầm muốn báo với bà rằng: cuộc sống con, cháu, chắt của ông bà ngày nay đã khấm khá gấp trăm, vạn lần cái cảnh sống vất vưởng của ông bà xưa. Mong bà (và ông) cứ yên tâm phiêu du nơi "Tây phương cực lạc"

Bu mình sinh năm Bính Dần – 1926 trong một gia đình khá giả. Ông ngoại có tí chức tước mà cả làng ai cũng gọi “Cụ Hội”. Sau này bu mình bảo: “Ông ngoại làm Phó hội nhưng đó là chức mua chứ không phải bầu”. Hóa ra ngày ấy đã có việc mua bán chức tước rồi nhưng là mua bán công khai chứ không bí mật. Vì bà già không có con nên ông ngoại mới phải cưới bà trẻ. Bà trẻ sinh hạ được hai người con gái: Bu mình và dì Bóc.

Tuy gia đình khá giả nhưng từ bé bu đã lam lũ. Suốt ngày chăn trâu, cắt cỏ, làm mọi công việc đồng áng như những con nhà nông dân khác. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, bu được bầu vào Ban chấp hành Hội Phụ nữ cứu quốc xã. Đầu năm 1946, cụ Hồ kêu gọi dân ta quyên góp vàng bạc, tiền nong để ủng hộ Chính Phủ gây quỹ độc lập. Trong “tuần lễ vàng”, bu là một trong những người trực tiếp đi quyên góp. Bu kể, có nhiều người ủng hộ nhẫn vàng, khuyên tai, dây chuyền, vòng, xuyến... Có người cả nhà chỉ có một đôi khuyên tai là tài sản lớn nhất cũng đem ủng hộ Chính phủ.
 Năm 1947, sau khi mẹ đẻ ra anh Nha mình mất đã mấy năm, thày mình lấy bu về làm vợ kế, nuôi nấng, chăm sóc anh mình, lúc ấy mới lên 7 tuổi. Bu bảo: “Thương thày mày gà trống nuôi con mà lại đẹp giai nên tao mới đồng ý”. Ngày 17 tháng 4 năm 1948, bu sinh ra mình, là con so của bu. Bu kể: “Lúc đẻ mày ra nom như con mèo hen, bé như cái chai đựng rượu của thày mày, tưởng không nuôi nổi”. Được ba bốn tháng bu đi làm đồng, thày ở nhà trông, cứ lấy cái lồng bàn úp vào cho ruồi nó khỏi bâu (quê mình trồng thuốc lào nên ruồi nhặng nhiều vô kể) rồi lấy cây đàn nhị ra kéo mấy bài dân ca là mình ngủ như con chó con. Lúc bu đi làm đồng về mới cho bú. Hôm nào đói quá, khóc nhiều, bu chưa về kịp thì thày bế mình sang hàng xóm xin bú rình bà bạn của bu cũng mới sinh con. Mà do ăn uống kham khổ, lại lội bùn suốt ngày, lại tản cư chạy Tây giữa thời loạn lạc, nên bu không đủ sữa, mình thường xuyên phải đi bú rình. Mình lớn lên không phải chỉ có sữa bu mà còn sữa của những người láng giềng.
Cuối năm 1955 đầu 1956, Cải cách ruộng đất về làng, gia đình mình được xếp vào thành phần Trung nông dưới. Lẽ ra là Bần nông nhưng vì có người phát hiện nhà mình có thêm một “tài sản lớn”, đó là hai phần ba chiếc máy khâu Singer từ đời ông nội để lại. Chiếc máy khâu chia cho hai anh em, thày mình là trưởng nam được hai phần, chú mình một phần. Hồi kháng chiến đi tản cư thì thày mang chôn dưới gốc chanh ngoài vườn. Nay vẫn đậy kín ở trong buồng. Cái tài sản ấy đã nâng cấp thành phần gia đình mình từ Bần nông lên Trung nông dưới. Tuy lên nhưng vẫn là “thành phần cơ bản” nên bu mới được kết nạp vào Nông hội. Hôm được kết nạp bu về khoe, cả nhà mừng lắm. Cái thành phần gia đình ấy cực kỳ quan trọng với số phận mỗi con người trong gia đình mình suốt 50 năm giời, trải qua 3 thế hệ. Bất kỳ ai làm gì, đi học, xin việc, vào tổ chức chính trị, xã hội...động khai đến lý lịch là phải có mục: “Thành phần gia đình trong Cải cách ruộng đất”. Nếu là Trung nông trở xuống thì cứ vô tư mà khai. Nhưng chẳng may ông bà là Phú nông, Địa chủ...thì mọi việc coi như hỏng...
Trước đó, khoảng giữa năm 1955, lên 7 tuổi nên mình đã nhận biết được nhiều về cuộc sống. Điều trớ trêu là những nhận biết đầu tiên của một đứa trẻ lại là cảnh đói kém. Lúc đó Nhà nước có chủ trương thu “Thuế động viên”. Gọi là “động viên” nghĩa là do khó khăn của đất nước sau chiến tranh, nên Chính Phủ động viên ai còn nhiều thóc lúa thì tự nguyện đóng thêm thuế cho Nhà nước. Tuy nhiên ở xã, ở làng người ta cứ đè đầu các nhà đều phải nộp thuế. Còn một thúng cũng phải nộp. Nếu không nộp, đội du kích đi kiểm tra phát hiện ra là bị lên loa cảnh cáo ngay. Còn anh ăn bằng gì kệ anh. Nhiều nhà sợ chết đói phải giấu thóc ở dưới hầm... Khi cuộc Cải cách ruộng đất về xã, về làng thì không khí ảm đạm vô cùng. Những người được “phong” lên Phú nông, Địa chủ thì mọi người đều gọi họ bằng “thằng”, bằng “con”, kể cả con, cháu... cũng đều gọi bố, gọi ông là “thằng”. Ở đấu trường, một chị còn rất trẻ chỉ mặt bố chồng: “Thằng kia, mày biết tao là ai không?”. “Dạ, thưa bà nông dân, “con” biết “bà” là ...con dâu của “con” ạ!”... Nhưng sự ảm đạm còn làm cho không khí làng quê lạnh lẽo hơn nhiều bởi nạn đói ghê gớm, hậu quả của chiến dịch thu thuế động viên năm trước.
Một hôm thày bu mình dắt díu mấy anh em ra bãi tha ma, nơi lập kỳ đài “Tòa án đặc biệt” đấu địa chủ, cách nhà khoảng hơn cây số. Ai cũng đói nhưng không đi thì sẽ bị quy là “địch”. Mà đã là “địch” thì có khi bị tử hình cũng nên!... Trẻ con đói khóc như ri. Bà mẹ nào không giỗ được con để chúng khóc nhiều là có thể bị quy cho tội gây rối cuộc đẩu tố... Mình lên tám tuổi, nhịn đói quen rồi nên vẫn mải chơi, mải nghịch với mấy đứa bạn cùng lứa. Thằng Nguyên em mình năm ấy ba tuổi, nằm trong lòng bu thi thoảng lại khóc vì đói quá. Bu gọi mình lại giao “nhiệm vụ”: “Con về bà ngoại xin cho em nắm cơm nhá”. Mình ngoan ngoãn chạy đi. Khi về đến bà ngoại thì bà bảo: “Nồi cơm vừa cạn, cháu chờ tí cơm chín bà lấy cho”. Nhưng trẻ con một tí cũng lâu. Mình chạy ra ngõ bắt bướm rồi quên khuấy “nhiệm vụ bu giao”. Mình quay lại trường đấu, trên đường qua một nong nước, nhặt được hòn cuội trắng như quả trứng vịt. Từ xa, bu mình nhìn thấy liền dỗ em: “Kia rồi, anh mày nó xin được cơm kia rồi!” Thẳng em nín khóc, vẫy tay rối rít. Đến nơi, mình vô tư chìa ra hòn đá cuội. Biết không phải cơm, nó tuột khỏi tay bu, lăn xuống bãi cỏ, khóc toáng lên. Không biết bu sợ những người Cải cách ruộng đất hay thương thằng Nguyên đói mà bu vồ vội lấy nó, ôm chặt nó vừa khóc vừa chạy ra bờ ruộng để tránh xa khu vực đẩu trường...
Trận đói ấy ở làng mình không chết ai vì đã sang thời ta, thời dân chủ rồi. Chứ tháng Ba năm 1945 khi cách mạng chưa thành công, dưới thời Nhật chiếm, làng mình chết đói nhiều người lắm. Thày mình bảo, đến nỗi người chết không có người chôn, cứ phơi ra ở đường mấy ngày thối tha lên, ghê lắm...Nhưng cảnh đói hiện tại đã khiến anh em chúng mình, thày bu mình, người nào người nấy gầy như que củi, da xanh như tàu lá. Anh em mình thường xuyên phải vác cuốc ra ruộng rau muống người ta đã hái hết, lật đất lên, đập ra lấy “củ” rau muống về ngâm nước, cố rửa cho sạch đất, phơi khô rồi ghế vào nồi cơm. Một hạt cơm cõng hai ba cái “củ” rau muống. Cả nhà ăn ai cũng khen bùi. Chỉ có điều là dù rửa kiểu gì thì vẫn phải thưởng thức cả sạn, đất, không thể sạch được. Thày mình bảo: “đất cũng sạch, ăn không việc gì đâu!”. Quả vậy, đói thì cái gì cũng ngon. Đến bây giờ dù đủ “sơn hào hải vị”, gạo bắc thơm, séng cù...mình vẫn không thể quên cái vị củ rau muống ngày ấy.
Bu là người duy nhất suốt ngày phải lo ăn cho cả nhà. Trong nhà không có lấy bất kỳ cái gì có thể ăn sống người, ngoài mấy cây đu đủ đã ăn hết quả. Thày mình chặt cả cây xuống, bổ ra, thái nhỏ phơi khô độn vào cơm. Bu thì hằng ngày phải đi bộ chân đất, không dép guốc hàng chục cây số sang quê ngoại ở Quỳnh Côi, Thái Bình vay bà con cô bác. Có hôm mang về được mấy ống gạo hay mẻ khoai lang ăn dè được một hai hôm đã hết. Rồi sáng sớm tờ rờ đất đã lại đi. Thày mình đói thì ngồi kéo nhị. 5 anh em mình đứa nọ trông đứa kia, đói quá thì lăn vào chân đống rơm ngủ quên. Ngủ chán dậy, đứa bé khóc, đứa nhớn dỗ...
Một hôm đến gần nửa đêm không thấy bu về, thành thử đến cả mình là nhớn cũng cứ dào nước mắt ra vì vừa đói, vừa nhớ bu. Thày mình hết kéo nhị lại lăn ra giường ngáy khò khò. Tính ông vô tư là vậy. Khoảng nửa đêm thì bu về. Cả lũ chúng mình mừng quá, hai thằng em khóc toáng. Khi thày mình thắp được cái đèn hoa kỳ lên thì bu vẫn vừa nói vừa run. Bu kể: Cái đò nan qua con sông Luộc bị thủng một lỗ nhỏ. Sang đến gần bờ bên này thì nước vào lưng thuyền. Ông lái đò mọi ngày vẫn vừa chèo vừa tát nước. Hôm nay ông bận gì nên giao cho đứa con 15 tuổi cầm chèo. Khi nước vào nhiều, nó luống cuống không chèo được vào bờ. Con thuyền nan cứ quay tròn cách bờ hơn hai con sào. Những người ở trên bờ lo quá phải hô hoán: “Tất cả bình tĩnh ngồi im. Anh kia không chèo nữa. Hai người lấy ống bơ múc nước ra. Còn những người khác lấy nón vợt nhẹ cho thuyền từ từ vào bờ”. Đến gần bờ người ở trên kéo thuyền vào. Chỉ một tí nữa là đắm đò chết sạch. Toàn đàn bà, trẻ con không biết bơi... Lên được đến bờ, biết chắc là sống rồi mà bu mình vẫn run bắn chân tay không đi được, phải ngồi lại trên bờ đê hằng tiếng đồng hồ, gần tối mới lọ mọ đội cái thúng có mấy củ khoai lang về... Nếu bu chết đận ấy thì cuộc đời chúng mình sau này không biết ra sao?
Khoảng năm bẩy, năm tám, Đảng và Nhà nước thực hiện Sửa sai. Cuộc sống vui vẻ hẳn lên. Bu thỉnh thoảng dấm dúi nấu nồi rượu gạo cho thày uống và đôi khi có bạn đến chơi có chai rượu nhâm nhi với đĩa lạc. Vì Nhà nước cấm nấu rượu (tất nhiên không cấm uống), nên bu nấu vào ban đêm và không thắp đèn. Một hôm mình thấy bu kêu thất thanh và thấy lửa bốc sáng lòa góc bếp. Mọi người chạy vào thì phát hiện bu bị bỏng. Bà kể: “Tối quá, không biết lọ rượu đang hứng đã đầy đến đâu, bu liền châm cái đóm, mở cái khăn ướt phủ trên miệng lọ và ống rượu đang chảy, soi vào miệng lọ. Lửa bắt vào lọ rượu đang nóng cháy bùng lên. Bu giật mình, nghiêng lọ hắt lửa ra. Tưởng là hắt lửa ra thì hết ai ngờ hắt luôn rượu vào ống quần. Một chân bu thành ngọn đuốc sống... Ngày ấy làm gì có tiền đi nhà thương. Bu cứ loanh quanh chữa bằng lá lẻo thuốc nam, cho nên nó kéo dài sự đau đớn của bu mấy năm giời. Những đám sẹo sùi ra ở chân bu, lồi lõm như hình thù những miếng san hô. Thời kỳ “ăn da non” nó ngứa ngáy không ngủ được. Suốt ngày thằng Dũng, thằng Nguyên phải lấy cái tăm khêu vào những chỗ lõm cho bu đỡ ngứa...
Trong khi chín mươi phần trăm người làng mù chữ thì chả hiểu được học từ bao giờ, bu có trình độ học vấn lớp ba. Bà mê đọc sách lắm. Ở trong nhà bao giờ cũng có những bộ tiểu thuyết Trung Quốc như: Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Phấn Trang Lâu, Tam Quốc Chí, Tây Du ký... Đêm đêm bu chong đèn, vừa quạt cho các con ngủ vừa đọc truyện. Sau thời kỳ Cải cách ruộng đất, người ta đi thu hồi và đốt rất nhiều sách, cấm không cho đọc. Chẳng biết cấp trên cấm những sách gì. Hình như sách nhân văn giai phẩm? Nhưng ở làng vì đa số không biết chữ nên sách gì cũng đốt. Bu tiếc lắm. Năm 1957 khi thày mình nhờ người lợp lại cái mái nhà rạ thì một ông hàng xóm lúc rỡ mái cũ thấy bật ra mấy quyển sách, có cả tiểu thuyết Trung Quốc, cả Truyện Kiều, cả Cung oán Ngâm khúc...thế là bị tịch thu luôn. May, không bị tù tội gì...
Được vài năm kinh tế khá lên một chút, cuộc sống vui vẻ hơn một chút cho đến khoảng 1961. Viết đến đây mình nhớ ông Tố Hữu có câu thơ: “Chào sáu mốt đỉnh cao muôn trượng...”. Quả vậy, sau năm 1961 trở đi cuộc sống lại tụt dần... Năm 1964, học hết lớp Tám, bu vận động mình nghỉ học để đỡ sự đóng góp. Mặc dù nhà mình lúc ấy có bốn đứa đi học (ba đứa con và một đứa cháu con chú ruột mình đã mất), nên theo chính sách chung, mỗi đứa được miễn một phần ba học phí. Đứa anh học xong để sách giáo khoa cho đứa em. Bản thân mình thì mang vở của năm trước ra ngâm nước vôi cho tũa hết mực đi, phơi khô dùng lại, đỡ phải mua giấy vở. Thậm chí cái ngòi bút rẻ thế mà mình cũng không chịu mua, đi vặt trộm lông ngỗng về vót thành bút chấm mực viết. Mọi biện pháp tiết kiệm cũng không đỡ nổi cho bu phải đi làm hàng xáo kiếm mớ cám bán đi đóng học phí và mua sách cho con cháu học. Bởi có mấy sào ruộng đã xung công vào hợp tác xã. Mà hợp tác xã thì cứ đến mùa chỉ được chia vài giành thóc, chưa đến ngày ba tháng tám đã hết sạch. Lại đói.
Đúng lúc ấy có cuộc vận động đi “xây dựng kinh tế, văn hóa Miền Núi”. Nói như thế cho sang chứ nói “đi khai hoang” thì nó có vẻ hèn hèn thế nào ấy. Công tác tuyên truyền của ta phải nói là tài tình. Những chữ này đổi thành những chữ khác làm cho người nghe cứ mát lòng mát dạ. Thế là thày bu mình quyết định ra đi. Thôi thì quê hương bản quán, nơi chôn rau cắt rốn, nơi mà những khóm tre, bờ ao, những bến nước, sân đình, những cánh đồng mang tên Đồng Cửa, Đồng Cục... từ bao đời đã ăn sâu vào máu thịt...Nhưng giờ đây cuộc cuộc sống khốn khổ đã kéo quá dài nên mệt mỏi. Bước chân ra đi hy vọng có sự đổi thay cuộc sống chăng.
Trong mười năm, từ 1965 đến 1975, cuộc sống khai hoang nơi “rừng thiêng nước độc”, bằng lao động chân tay, chặt cây, đốt nương, trèo đèo, lội suối, không quen với khí hậu nơi thâm sơn cùng cốc, với muỗi, vắt, ruồi vàng, bọ chó...và đặc biệt với 7 lần sinh nở trong những điều kiện cực kỳ thiếu thốn, đã biến bu từ một phụ nữ khỏe mạnh thành một người đàn bà yếu ớt, nhiều bệnh tật.
Khoảng cuối những năm sáu mươi, bốn mươi tuổi, bu đã phát bệnh. Lúc thì ho, lúc thì sốt...da dẻ cứ xấu đi. Hiểu biết y học lúc ấy cũng rất kém, hơn nữa làm gì có tiền đi những bệnh viện lớn khám cho ra bệnh để điều trị đến nơi đến chốn. Khi nào nặng quá thì xuống trạm xá xã tiêm cho vài mũi, được mấy viên B1 uống vào là có vẻ như khoẻ hẳn ra. Lại về. Bệnh cứ lai rai, nhiều người phán rằng, bà bị bệnh “hậu sản”. Mình đang công tác hành chính ở phòng y tế huyện, mà lúc nào cũng lo cho sức khỏe của bu. Bạn bè trong ngành y tế thỉnh thoảng có thuốc bổ phân phối như rượu canh ki na, phi la tốp, sinh tố B12 nhiều lúc nhường nhịn cho để mình mang về cho bu. Có lần được phân phối một hai lạng cao xương cũng mang về cho bu. Chỉ mong làm sao bu khỏe lên. Nhưng bu không khỏe mà cứ yếu dần. Bu là người đam mê sách văn học, thích nghe đài. Mình đã kiếm bằng được chiếc đài Orionton, làm pin muối cho bu nghe tin tức cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trong đó có hai thằng em đang ở chiến trường. Mình tìm những cuốn truyện của các nhà văn Việt Nam như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Đào Vũ...để bu đọc cho khuây khỏa.
Giữa năm 1974, khi vợ mình đang mang thai con gái đầu lòng thì một hôm cô hàng xóm đạp xe 20 cây số ra cơ quan báo tin: “Anh ơi, bà mất rồi!”. Mình rụng rời chân tay. Cái bút đang viết đổ xuống. Nước mắt trào ra nhỏ tòng tọc xuống trang giấy. Mình không nói được câu nào, cứ ngồi như thế mãi mới đứng lên được như người vừa qua cơn ác mộng... Mình xin cơ quan Ủy ban huyện cho một chuyến xe Gat 69, hai giờ sau về đến nhà. Đã tám giờ tối. Ngôi nhà gianh, cột chôn chống nóc, vây bằng nứa của thày bu nằm đơn độc ở sườn đồi, im ắng và tối tăm...Thày mình bảo: “Bu mày đang cấp cứu ở dưới trạm xá xã...”. Quay xe lại trạm xá, mình bàn với chú Nguyên, em mình là y sĩ công tác ở Phòng Bảo vệ bà mẹ trẻ em huyện xin đưa bu đi Bệnh viện tỉnh ngay. Cuộc thảo luận rất chóng vánh. Anh Y sĩ trạm trưởng đồng ý và tiện xe, chúng mình đưa bu lên Bệnh viện tỉnh điều trị. Người ta bảo bà bị bệnh lao, tức lao lực. Sau này các thày thuốc bảo mình: Đó là thứ “bệnh của người nghèo”. Nguyên nhân sâu xa bệnh tật của bu là do chính cái nghèo sinh ra!
Sau hơn một tháng điều trị tại khoa Lao của Bệnh viện tỉnh, bu đỡ, ra viện. Nhưng bệnh không khỏi hẳn. Cuộc sống vẫn khó khăn. Bệnh tật vẫn dai dẳng. Mình đã nghe người ta mách tìm cả rau thai nhi ngâm mật ong mang về cho bu, nhưng bu vẫn không khỏi. Thỉnh thoảng mình về thăm. Bu nói dối: “Hồi này bu khỏe hơn rồi!”.
Tháng Ba năm 1975 một cơn lốc xoáy kéo một vệt dọc xã Phong niên, nơi thày bu mình đang sinh sống. Hằng trăm ngôi nhà bị đổ hoặc tốc mái. Khi gió to, thày bu mình và hai thằng em chạy xuống một cái bếp nhỏ ở dưới thấp để lánh nạn. Chỉ trong giây lát, cơn lốc “bốc” cả ngôi nhà ba gian, cột chôn chống nóc của thày bu mình tung lên giời và văng ra phía trước khoảng chục mét. Nóc nhà lộn ngược xuống, cả 8 cái cột quân, hai cái cột cái chổng vó lên như một con trâu bị phải gió. Cũng lạ, cái đèn phẫn thày mình mang ở xuôi lên từ ngày đi khai hoang, chao bằng sứ, mỏng mảnh là thế mà vẫn “bám” theo xà nhà, không vỡ. Nền nhà chỉ còn trơ ra hai cái giường ba xà, một đống chum vại và dụng cụ gia đình... Từ hôm ấy thày bu mình và thằng Nho, thằng Nhi đứa học lớp 7 đứa học lớp 4 phải sống ở cái bếp chỉ hơn chục mét vuông. Vừa nấu ăn vừa ngủ, vừa là nơi tiếp khách... Muốn làm lại được cái gọi là nhà như thế trong hoàn cảnh nghèo khó ấy ít nhất phải hằng năm.
Năm giờ chiều ngày Ba mươi tháng Tư năm một chín bẩy nhăm, mình đang nghỉ phép, đi rừng kiếm mấy cây nứa làm dàn mướp cho thày bu. Vừa vác nứa về đến nhà vứt xuống sân thì bu gọi, giọng đầy phấn chấn: “Con ơi, mày biết gì chưa? Giải phóng Sài Gòn rồi!” “Sao bu biết?” “Một cái ô tô của huyện vừa qua đây có gắn loa ở trên nóc, nói là Giải phóng Sài Gòn trưa nay rồi!”. Bu mình như khỏe hẳn ra bởi tâm trạng của một người dân hai mươi năm chờ đợi hòa bình, thống nhất đất nước. Hơn nữa, thằng Dũng nhà mình, công an vũ trang lại đang trên đường vào Nam để tiếp quản Sài Gòn...
Hôm sau mình trở lại cơ quan làm việc. Đến chiều 12 tháng 5 (mùng 2 tháng 4 âm lịch) thì nhận tin sét đánh: Bu mất! Lần này thì bu mất thật. Vợ chồng mình và chú Nguyên đang công tác ở huyện chuẩn bị hậu sự cho bu bằng việc chạy giấy tờ xin mua vải liệm, xô màn trắng làm băng tang cho con cháu...rồi tức tốc về. Thày mình kể: “khoảng 9 giờ sáng, bu mày đang đọc sách ở gốc mít trên kia, tự nhiên kêu khó chịu đứng lên vào được đến cửa bếp này thì gục xuống. Thày chạy vội vào đỡ. Máu từ trong miệng bu mày thốc ra lênh láng một gian bếp. Trên tay vẫn cầm cuốn tiểu thuyết Lưu lạc của Đào Vũ mà không trăng trối được một lời...”
Bu nằm trên tấm phản kê làm giường ở góc bếp. Mình kéo cánh màn một lên, khuôn mặt bu xanh mét, hốc hác, đôi mắt nhắm nghiền như đang ngủ. Trên khóe môi của bu vẫn còn dính một giọt máu đã khô...Bu sinh năm 1926, đến lúc ra đi mới vừa tròn bốn mươi chín tuổi. Mình thầm gọi: Bu ơi, bu...! Nước mắt mình trào ra, khuôn mặt của bu nhòa đi trong góc bếp nép dưới chân một quả đồi nằm đơn độc gần đường cái. Chả lẽ, cả một kiếp người, lận đận từ xuôi đến ngược, giờ này bu mới được thanh thản hay sao!?
Hôm sau, thày mình nhờ bà con gác mấy cây nứa trên nền ngôi nhà đã bị “bốc” mất trong trận gió lốc hơn hai tháng trước, lợp lên mấy phên gianh để che linh cữu cho bu.
Sau này trong một lần nói chuyện với thày mình, thày bảo: “Hồi trước, những thứ mày gửi về cho bu mày bồi dưỡng sức khỏe, bu mày đều không chịu dùng. Toàn giấu đi, mang bán lấy tiền để chi sắm cho gia đình, mua dầu, mua muối, mua thức ăn: chai nước mắm, bìa đậu, mấy con cá khô cho cả nhà cải thiện...  

                                                                         Lào Cai, 25/8/2013     

Không có nhận xét nào: