Thứ Tư, 14 tháng 8, 2013

“ Thắp nhang Thành Cổ” - Lời cầu siêu tháng bảy

“ Thắp nhang Thành Cổ”

 - Lời cầu siêu tháng bảy

              
                 
Nhạc sĩ Phùng Chiến
      Công Thế                                                                   Hội VH- NT Lào Cai
Sáng ấy, thứ bảy, tháng bẩy tôi vừa viết xong bài bút ký về những ký ức của thời chưa xa “Trở lại cung đường máu- lửa”. Đang phấn khích, không thể trì hoãn sự hứng khởi, tôi quyết tự thưởng bằng chầu cà phê xịn như cách để tiếp dưỡng nguồn lửa. Nhưng sao cà phê một mình được? Nhấc máy bấm số bất định trong danh sách bạn bè. Té ra vào đúng máy nhạc sĩ Phùng Chiến. Chả hiểu có sự trùng lặp, linh nghiệm nào hay không? Mà phía bên kia đầu dây nhạc sĩ nói giọng đầy xúc động “ Chú đến anh ngay, rượu anh đã chuẩn bị, trà đã sẵn.. Anh vừa xong một ca khúc, có thể nói tương đối hoàn thiện…” Rồi giọng ông nghe như ngèn ngẹn ở câu “ Thắp nhang Thành Cổ …tháng bẩy”. Tôi vẩn vơ nghĩ:
Lạ! Hai anh em, hai thể loại nghệ thuật khác nhau mà lại cùng một chủ đề, cùng có khoảnh khắc hồi tưởng Trường Sơn. Như điều chi nhắc nhở: Tháng bảy của lòng tưởng nhớ!..
Khác với mọi ngày ông không tiếp khách trong phòng, mà hôm nay kê bộ bàn nghế nhựa ở ngoài khoảng vườn nhỏ phía sau nhà. Trên bàn có bộ ấm trà, các tách đã được bầy thành hàng, hương trà thơm tỏa lên ngào ngạt, kế bên góc bàn một hũ sành nhỏ, tôi đoán chắc là rượu quý. Tất cả được bày biện chu tất. Tôi giật mình liên tưởng đến như một đàn tràng cầu siêu đầy vẻ nghiêm túc. Chỉ có điều ở cái đàn tràng này không có lọ hoa và thay vào đấy là bản thảo của ca khúc “ Thắp nhang Thành Cổ”. Thấy nhạc sĩ đang ôm ghì cây ghi ta, say sưa trầm bổng theo khuôn nhạc. Không thể để cái cảm xúc đang thăng của ông bị chi phối, tôi đứng lặng bên cửa nghe. Lời ca du dương theo lối tự sự, sâu lắng. Những nốt nhạc trầm thủ thỉ như vỗ về, rồi bỗng vút lên bay bổng, lẵng du. Những điệp từ gằn lên như nức nở, xa xôi. Mái tóc của ông bồng bềnh lúc hất lên khi xõa xuống theo giai điệu, tan loãng theo làn gió hun hút cuốn vào khu rừng trẩu phía sau đồi. Lời ca như lời tâm sự, mơ hồ vời vợi với người bên kia cõi thế. Nghe như lời cầu siêu các linh hồn Liệt Sĩ. “ Thắp nén nhang mà lòng tôi cứ nấc lên nghẹn ngào/ Gặp lại Thành Cổ hôm nay, ai mất ai còn, trong nước mắt mặn mòiNhững linh hồn bất tử của tôi ơi…Tên các anh mãi thành tên đất nước/Thân thể các anh đã hòa đất mẹ…”(Thắp nhang Thành Cổ)
Công Thế Thắp nhang Thành Cổ


 Câu chuyện của tám mươi mốt ngày đêm Thành Cổ giữa mùa hè rực lửa ấy khi thẩm thấu qua giai điệu của Phùng Chiến, mà cứ rội lên sự hy sinh lẫm liệt, như thước phim tua chậm… Cảnh ấy, người ấy, dù là người đã đãi đằng qua thời trận mạc, trong sinh tử mất còn hay những ai sống trong thời bình chưa hiểu hết cảnh binh đao cũng cảm nhận được sự gian nguy, khốc liệt    của chiến tranh. Để rồi tự nấy dằn mình nhớ lại, dằn mình hiểu cái giá cho cuộc bảo vệ độc lập tự do, và cũng dằn mình để sống sao cho vẹn nghĩa trọn tình...
Người ta thường nói người già hay suy tư tâm tưởng trong hoài niệm. Câu nói này e có phần chưa đúng với Phùng Chiến. Bởi trong nhạc của Phùng Chiến vẫn luôn ăm ắp, cái nhịp sôi động trong thời hiện tại và còn hướng đến cả cái cảm của tương lai. Song đề tài chiến tranh với ký ức lửa réo, bom gào thì chưa khi nào nguôi trong ông. Nó cứ miên man thôi thúc như níu kéo ông bật lên những nốt nhạc mà ở đó những người đồng đội ông đã ngã xuống cho màu xanh quê hương. Có lần ông tâm sự : Con người ta không chỉ sống bằng hiện tại. Đời sống cần nhiều hơn thế!.. Đại khái, ý ông nói cái quá khứ là truyền thống, làm nền tảng để vững bền cho hiện tại và tương lai. Không một chủ thể sống mà bỏ qua truyền thống, quên đi quá khứ như vậy sẽ là mất gốc. Quá khứ để nâng niu trân trọng, là căn cốt cho hiện tại và tương lai hướng tới, vươn đến sự tốt đẹp bền vững hơn.
 Phùng Chiến sinh năm 1947 tuổi Đinh Hợi, cái tuổi mà các thầy tướng số phán “Đinh, Nhâm, Quý, Giáp, có tài” Nhưng đối với ông lại rất kiệm lời khi nói về mình. Mặc dù những đứa con tinh thần ấy đã làm nên tên tuổi Phùng Chiến, người nhạc sĩ của núi rừng Tây Bắc và cũng không ít lần được rạng rỡ trước công chúng và bạn bè. Điều làm ông tâm đắc hơn cả là những đứa con tinh thần ấy đã biết làm đến cái đích rung động tâm hồn, sẻ chia đồng cảm với người nghe nhạc. Để rồi mỗi khi giai điệu vang lên được khán giả mến mộ lưu dấu và chính họ đã định danh tên tuổi nhạc sĩ. 
Có lẽ miền đất nơi Thánh mẫu Âu Cơ định tọa, Hạ Hòa – Phú Thọ nơi ông sinh ra đã sớm được thừa hưởng âm phúc của cội nguồn. Dòng sông Thao ong óng uốn lượn, cuồn cuộn phù sa bồi đắp bãi lúa, nương dâu, rừng cọ đồi chè với nao nức thi ca. Các làn điệu dân ca chân mộc, những câu hát ví, hát đúm, hát xoan truyền thống đã được UNESCO vinh danh là di sản phi vật thể của nhân loại cần bảo tồn kia? có chăng những làn điệu dân ca ấy đã neo mầm trong ông từ thủa âu thơ.  
Năm 18 tuổi chàng thanh niên cường tráng Phùng Chiến hăm hở lên đường nhập vào đội chiến binh cứu nước. Sau mấy tháng huấn luyện anh được bổ sung làm pháo thủ của đơn vị phòng không. Chỉ ba năm sau đơn vị được chi viện cho chiến trường Miền Nam. Cũng như hàng vạn người lính khác anh nhập vào đoàn quân trùng trùng vượt Trường Sơn vào Nam đánh Mĩ. Tham gia chiến dịch đường 9 - Nam Lào, Khe Sanh, Làng Vây, Tà Cơn, Ái Tử... Sau chiến dịch đó người chiến binh Phùng Chiến đã trở thành dũng sĩ diệt máy bay. Đặc biệt chiến dịch tám mốt ngày đêm rực lửa Thành Cổ Quảng Trị đã in đậm trong ông những ký ức không bao giờ phai. Chiến trường ác liệt, sự nồi da xáo thịt trong cái tàn khốc của chiến tranh, ông chứng kiến bao đồng đội đã ra đi, thân thể của họ đã hòa vào đất nước. Cái đau thương mất mát ấy vinh quang cho độc lập dân tộc, cứ ám ảnh trong ông khó nguôi.
Đất nước sạch bóng quân thù, Bắc Nam liền một dải. Người chiến binh Thành Cổ hăm hở trở về quê với bao dự định ước mơ tươi sáng, nhưng ước mơ làm người chiễn sĩ văn hóa có cơ trỗi dậy trong ông. Chuyển ngành về Ty văn hóa Yên Bái (sau này là tỉnh Hoàng Liên Sơn). Với năng khiếu trời cho cùng với đam mê cháy bỏng, Phùng Chiến đã tốt nghiệp trường Văn hóa – Nghệ thuật Tây Bắc, khoa âm nhạc sáng tác. Thỏa ước nguyện, anh lao vào nghiên cứu, tìm hiểu các phong tục tập quan, các làn điệu dân ca, dân vũ của đồng bào dân tộc thiểu số, để phục vụ cho công việc và tích lũy làm vốn cho sự nghiệp sáng tác sau này.
Trải qua hơn ba mươi năm công tác, qua nhiều chức vụ, từ cán bộ ty văn hóa Yên Bái, Hoàng Liên Sơn và rồi cuối cùng tại hội Văn học – Nghệ thuật tỉnh Lào Cai. Suốt dải dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ, Phùng Chiến đã xông xáo đến các bản làng tìm hiểu văn hóa các dân tộc nơi đây. Trong ông luôn đau đáu với mảng đề tài văn hóa các dân tộc miền núi và chiến tranh người lính. Bởi ông nghĩ văn hóa các dân tộc là một tài sản quí giá cần phải bảo tồn và phát triển nếu không sẽ bị thời gian làm mờ phai. Chính vì lẽ đó mà các ca khúc ông sáng tác đều mang âm hưởng dân ca các dân tộc. Ông vận dụng các làn điệu dân ca một cách linh hoạt và nhuần nhuyễn làm cho giai điệu trở lên mượt mà đằm thắm. “ Mùa xuân đi chợ Bắc Hà” “ Uống rượu ở chợ Bắc Hà” ... theo âm hưởng dân ca HMông. “Mùa xuân trên con đường mới” - âm hưởng dân ca Hà Nhì “ Kèn lá đêm trăng”- Ngẫu hứng dân ca Dao, “Khát vọng sông Chảy” “Miền đất có hai dòng sông”…mang âm sắc của dân ca Tày. Và còn nhiều, nhiều các tác phẩm khác cứ miệt mài tuôn chảy như suối nguồn trong veo, véo von giữa đại ngàn, làm cho cảnh sắc núi rừng trở nên thân thiết mến yêu hơn. Càng ngày Phùng Chiến càng tạo cho mình một phong cách riêng mang đậm bản sắc núi rừng Tây Bắc. Song làm lên tên tuổi nhạc sĩ Phùng Chiến hơn cả, mà mỗi khi giai điệu cất lên người nghe đã thấy xốn xang như: “Sa Pa nơi gặp gỡ đất trời”,  “Lửa cháy đêm xòe”, “ Cánh còn cầu duyên”, “Khát vọng sông Chảy”  …Các ca khúc đã định danh người nhạc sĩ trong lòng khán giả. Không chỉ vậy mà khẳng định bằng những giải thưởng của Hội nhạc sĩ Việt Nam cũng như bạn bè yêu nhạc.
Ông say mê với đề tài dân tộc miền núi và chính các làn điệu dân ca đã chắp cách cho âm nhạc của ông bay bổng. Ông đã góp phần làm phong phú của dòng nhạc dân ca đương đại. Song trong lòng Phùng Chiến vẫn luôn canh cánh như mắc nợ với những đồng đội năm xưa. Các nốt nhạc nhớ thương, ký ức chiến tranh vẫn không phai mờ, luôn khắc khoải muốn làm được gì đấy, dù nhỏ thôi như lời tri ân. Nếu ai đã từng được chứng kiến lần ông tham dự Lễ kỷ niệm 40 năm “Chiến sĩ bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị năm 1972” Trong buổi gặp lại những đồng đội xưa, người mất, người còn, bồi hồi xúc động mà nước mắt tuôn trào. Tâm hồn sắt đá đến mấy cũng phải run run khi gặp đồng đội “Một thời hoa lửa”. Trong vòng tay nhớ thương, Họa sĩ Lê Duy Ứng, Nguyễn Danh Tài, Trần thái Mùi...những chiến sĩ Thành Cổ năm xưa bằng xương bằng thịt. Những người lính già đã ôm ghì lấy nhau trong ngân ngấn lệ, trong chén rượu mặn cay nước mắt… Và càng hiểu giọt nước mắt ấy không chỉ để dành cho nhau mà là nỗi nhớ thương ấy danh cho những đồng đội còn trong tâm tưởng.
 Vẫn cái nguồn cớ đó xin nhắc lại, rằng nghệ thuật không bao giờ chỉ là hiện tại. Nghệ thuật vang lên luôn hắt sáng tâm hồn người sáng tác. Nó là quá khứ đã qua, là kỷ niệm ấm ủ đã làm cơn cớ cho ông trăn trở. Bởi lẽ đó các ca khúc người lính đầy xúc động vẫn vang lên trong tập sáng tác của ông “Tiếng hát nơi biên cương” “ Màu xanh và nỗi nhớ” … Và đặc biệt tháng bảy này ông vừa ra mắt ca khúc “ Thắp nhang Thành Cổ”. Lại lần nữa lấy đi nhiều nước mắt của ông và những đồng đội còn lại hôm nay.
Quay trở lại câu chuyện ca khúc “Thắp Nhang thành Cổ” mà ông đã gọi tôi đến chia sẻ. Ông bảo: “Ca khúc này anh đã bật khóc nhiều đêm…Để có “ Thắp nhang Thành Cổ” ra đời, tôi đoán chắc cái tâm ông đã nhức nhối, hối thúc lâu lắm, nhiều lắm đấy. Mỗi lời ca là tiếng lòng xa xót, từ gan ruột, là lời tâm sự, là khúc tráng ca vinh quang của “Những thiên thần bất tử…“… Trong hương khói huyền ảo… Những bóng mũ tai bèo bay lên…bay lên…
Ngẹn ngào, ngẹn ngào quá. Tôi thành thật phải nhắc điệp từ trên với tâm thế một người nghe, người từng qua bom đạn. Chỉ có những người trong cuộc mới thấu, mới cảm được cái mất mát, đau thương. Và cũng hiểu được cái giá đích thực của hòa bình độc lập. Lời ca như nhập đồng đưa ông về quá vãng, phiêu linh, mơ hồ, hòa cái nhập của huyễn hoặc trở lên lung linh. Như ai mách bảo, tôi bỗng cầm hũ rượu rót tràn các ly cùng các tách trà bầy quanh bàn. Hương rượu thơm phảng phất quyện cùng hương trà khói sương, phảng phất. Bỗng đâu làn gió mồ côi quẩn lại, xoay vòng quanh cuốn theo hương trà, hương rượu cùng những chiếc lá khô bay xào xạc. Mái tóc ông bồng bềnh cảng trở lên hư ảo mông lung. Lời ca như có hình, loang loáng ánh bạc ngân văng vẳng. Phùng Chiến vẫn say sưa hát như mê, như sảng. Có điều chi rất mơ hồ khó lý giải! Cơn gió mồ côi cuốn quanh một hồi manh theo lá vàng như vòng xoáy vút cao lên, hun hút phía rừng trẩu mờ sương. Trong phút chốc ngỡ ngàng ông buông đàn đứng lên. Không ai bảo ai, cả hai chúng tôi đều lặng lẽ ngóng về nơi mờ xa như điều gì nuối tiếc…? Còn tôi nghĩ ca khúc “Thắp nhang Thành Cổ” - Lời cầu siêu tháng bảy, có lẽ đã nghiệm.../ 
                                                                 Tháng tri ân Liệt sĩ
                                                                           C.T

Không có nhận xét nào: