SUY và NGẪM
Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần toàn văn "NGHỊ QUYẾT
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRONG
THỜI KỲ MỚI" đăng trong Tạp chí "Cửa biển" số 98 ra tháng
8/2008. Với tư cách "người trong cuộc", tôi mạnh dạn phát biểu cảm
nghĩ của mình. Dẫu bài viết này có thể làm ai đó chưa thật hài lòng vì
"Trung ngôn nghịch nhĩ" nhưng lương tâm tôi mách bảo hãy viết với
đúng suy nghĩ của mình. Hãy vì đại cục chứ đừng viết để làm hài
lòng các "quan chức".
Bởi thế, tôi mạo muội bộc bạch những suy nghĩ của mình nề
thực chất văn nghệ HP. Mong các bạn lượng thứ.
Dưới
ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương ( Khoá VIII) của
Đảng ta, văn học nghệ thuật cả nước đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ và thu
được nhiều thành công trong sưu tầm, sáng tác, truyền bá... Tuy vậy, trong vựa
lúa óng vàng ấy không tránh khỏi những "hạt lép" lẫn lộn vào đống
thóc mẩy.
Là một
thành phố cấp 1 Quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh, lại là vùng đất giầu
truyền thống, có tiềm năng văn hoá, có khả năng giao lưu nhanh với các nền văn
hoá quốc tế. Trong mấy năm qua văn học, nghệ thuật Hải Phòng cũng có nhiều đóng
góp nhưng so với thực lực thì sự đóng góp đó chưa đạt đến những kết quả cao. Nó
chỉ là sự tồn tại chứ chưa có bước phát triển đột phá.
Trên
mọi mặt hoạt động văn học nghệ thuật, các hội chuyên ngành vẫn thường xuyên
sinh hoạt, hàng năm vẫn có "trại sáng tác", vẫn ít nhiều được đầu tư
kinh tế nhưng chưa có tác phẩm nào gây được sự chú ý của công chúng. Nhiều tác phẩm
được giải ở Trung ương nhưng lại không có trong danh sách "Giải thưởng văn
nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm" của TP (?). Vẫn có những cuộc triển lãm tranh,
ảnh, có đầu sách xuất bản nhưng dấu ấn để lại rất mờ nhạt. Điều đáng nói là
nhìn trên danh sách các tác giả ta thấy đều là những cái tên quen thuộc như
Đình Kính, Lưu Văn Khuê, Vũ Quốc Văn, Phạm Ngà, Hồ Anh Tuấn, Dư thị Hoàn, Trần
Lưu...(Văn-thơ) Quang Ngọc, Khắc Nghi (Mỹ thuật), Khánh Hồng,
Minh Nhật, Vũ Dũng, Phú Hùng...(Nhiếp ảnh), Đoàn Lê, Văn Lượng, Long
Khánh... (Điện ảnh, truyền hình). Nguyễn Kim, Tùng Ngọc, Duy Thái... (Âm
nhạc) v.v... Riêng tác giả sân khấu thì yếu và thiếu. Các tác giả Hải
Trường, Trọng Ước , Văn Lượng, Công Xình... mới chỉ có kịch bản cho sân khấu
nghiệp dư. Các anh chưa đủ "tầm" và lực để vươn xa lên cấp trung ương
và khu vực. Tuy thế sự đóng góp của các anh là rất đáng trân trọng và thực sự
không thể thiếu trong hoạt động nghệ thuật quần chúng ở các địa phương. Ta cũng
có những đạo diễn được đào tạo bài bản tại trường Đại học SK-ĐA Việt Nam nhưng
họ cũng chưa có tác phẩm nào "sống" với các đoàn nghệ thuật chuyên
nghiệp. Vẫn cái cảnh "gà què ăn quẩn cối xay". Họ vẫn chỉ đi làm các
chương trình ngắn cho các đội văn nghệ nghiệp dư để "tích luỹ vốn
sống". Phải chăng họ chưa thực có "tài" hay lãnh đạo các đoàn
nghệ thuật "trông giỏ, bỏ thóc", chưa thực tin tưởng ở họ? Mà nếu
không có "Đất dụng võ" thì đến bao giờ tài năng của họ mới được bộc
lộ?
Nhìn
chung ở các chuyên ngành, ta chưa thấy sự xuất hiện của các tác giả trẻ. Các
tác giả nữ thì càng "quý hiếm". Đây là điều làm các nhà quản lý VH-NT
thêm lo lắng về kế hoạch đào tạo để bổ xung thay thế cho lớp đàn anh.
Lâu
nay chúng ta luôn "đắm' mình vào "bệnh thành tích", không ai dám
nhìn thẳng vào sự thật để phát hiện ra những "căn bệnh trầm kha" đang
dìm các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp trong cảnh "sống dở, chết dở".
Một số đoàn nghệ thuật chuyên nghiêp (NTCN) chỉ tồn tại trên danh nghĩa còn họ
đã "chết dần trong tình yêu của những người hâm mộ". Họ nặng về biểu
diễn phục vụ lễ hội, hội nghị... và cả các đám cưới. Còn danh sách những vở
diễn "có dấu ấn" trong lòng khán giả thì...bói cũng không ra.
Đoàn
Chèo HP là người anh cả trong 5 đoàn NTCH nhưng có nhiều khi "chấp
chới" giữa "Chèo truyền thống" và "Chèo cải biên". Tổ
chức yếu, nội bộ không ổn định... lãnh đạo không thật sự chú tâm tìm cách lái
"con thuyền Chèo" ra khỏi vòng xoáy của cơ chế thị trường, của sự du
nhập các dòng nghệ thuật mới nên "con thuyền Chèo" chưa định được cụ
thể hướng đi cần thiết.
Đoàn
Kịch nói HP vốn là một đoàn nằm trong "Ngũ hổ" của nghệ thuật kịch
nói nước nhà. (Có thời gian dài 5đoàn kịch nói nổi tiếng là :Nhà háy kịch
Trung ương, Đoàn kịch nói Tổng cục chính trị, Nhà hát tuổi trẻ, Nhà hát kịch Hà
Nội và Đoàn kịch nói HP). Vậy mà mấy năm nay đoàn chưa có một vở diễn
"đinh" nào xứng tầm với danh
hiệu mà các bạn đồng nghiệp và khán giả cả nước đã trìu mến trao tặng. Đâu còn
nữa những "Con cáo và chùm nho", "Ma sa", "Vụ án 1000
ngày", "Hoa cúc xanh trên đầm lầy", "Nhân chứng và lịch
sử" v.v và v.v... Giờ đây trong kịch mục của đoàn ẽo ợt dăm ba vở nhạt
nhoà về nghệ thuật (như "Tắt đèn", "Cái chết của Hoa hậu" -
Chính là "Hoa hậu Siđa" sửa lại) hoặc hâm lại của các đoàn
khác (Chùm kịch vui do ĐD Lê Hùng dựng), hoặc "sống" được nhờ
có sự "tài trợ của tác giả chịu chơi"( vở "Tình xưa").
Vì thế trong các hội diễn gần đây, đoàn Kịch nói HP không đạt được những giải
thưởng cao.
Để tồn
tại, đoàn Cải Lương HP phải "đá nhầm sân" của ca nhạc và đi diễn ở
các cơ quan trương học. Vì thế "Ca-Nhạc" thì chưa đủ "tầm"
còn "Cải lương" thì không "ngọt giọng". Họ dựng
lại"Người lang thang không cô đơn" (Đoàn Kịch nói Thái Bình đã
tựng từ những năm 90 thế kỷ trước) một kịch bản hay nhưng vẫn "...cô
đơn" trên sàn diễn. Ngay cả vở "Nữ tướng Lê Chân" cũng chóng
quên trong trí nhớ người xem. Mới đây đoàn đã có nhiểu biến chuyển trong vở
"Ngô Vương Quyền".
Đoàn
Ca Múa HP thiếu những cái "đinh" khi Việt Hoàn và một số ca sĩ thành
danh chuyển đi nên nhiều tiết mục của đoàn dù có đạt huy chương vàng, bạc trong
hội diễn Ca-Múa-Nhạc toàn quốc nhưng không tồn tại trên "thị trường"
ca nhạc thành phố.
Đoàn
NT Múa Rối thành công sau những chuyên lưu diễn ở I Ran, Pháp...nhưng trong
Liên hoan Múa rối Quốc tế tại Hà Nội, đoàn cũng chỉ xếp loại khiêm tốn. Ngay cả
những tiết mục của rối nước vẫn là "tích cũ, trò xưa" hâm đi hâm lại
chứ chưa có sự đầu tư hợp lý để đưa các trò mới lạ vào. "Bình cũ
cần...rượu mới".
Điều
đáng suy ngẫm là Hải Phòng có hai phường rối độc đáo đó là phường rối cạn Đồng Minh, rối nước Nhân Hoà.
Nhưng sự kết hợp giữa Đoàn NT Múa rối chuyên nghiệp với các phường rối cổ
truyền xem ra cũng như "...nước chè hâm lại". Phải chăng nghệ thuật
"rối cổ truyền" của hai phường rối ấy chả có "miếng trò"
nào để các nghệ sĩ trẻ tiếp thu? Ngành du lịch HP lại không bám lấy "Vốn
sống cổ truyền" quý báu đó để giới thiệu với du khách quốc tế. Trong khi
đó ngành du lịch Hà Nội lại tổ chức cho các đoàn "lữ khách quốc tế"
du khảo đồng quê về tận Đồng Minh, Nhân Hoà xem múa rối. Khu nghỉ mát Hoàng
Long (Quảng Ninh) còn trịnh trọng mời NSƯT Xuân Thấm (nguyên trưởng
đoàn NT Múa rối HP) ra dạy và dựng tiết mục để họ "mua" khách du
lịch.
Xem ra
sự chỉ đạo của cơ quan quản lý văn hoá TP ta vẫn lơ lửng trên mây. Ngành du
lịch và văn hoá thiếu sự kết hợp hỗ trợ tương tác cho nhau (Nay ngành VH-TT
và Du lịch đã hợp nhất, chắc rằng sẽ có những hoạt động khởi sắc hơn)
Ở
nhiều đoàn NTCN, có những nghệ sĩ vì "nhảy nhầm" sang "ghế"
lãnh đạo nên tự họ đánh mất mình. Giá như họ cứ yên tâm với "thiên chức
nghệ sĩ sáng tạo" thì còn cống hiến cho đời được nhiều điều "bổ ích
và lý thú". Nay họ làm lãnh đạo mà cứ "lúng túng như thợ vụng mất
kim", thế là "làm quan cũng dở mà làm hề cũng dở". Cái lỗi này
một phần do tổ chức bố trí nhân sự chưa đúng. Một phần do nghệ sĩ lại cứ thích
"sĩ". Nhiều khi vin vào chữ "sĩ", có người sống buông thả,
họ tự đánh mất mình. Nội bộ lãnh đạo các đơn vị nghệ thuật lủng củng, bè phái.
Người thuyền trưởng mà mất lái thì con tàu sao đến đúng bờ? "Trên bất
chính, hạ tất loạn", lãnh đạo đơn vị sống quá "dễ dãi" nên nhiều
diễn viên "chân ngoài dài hơn chân trong". Họ lo chạy "xô"
kiếm ăn riêng. Có người mải "đánh lẻ" đến nỗi bỏ cả buổi diễn của
đoàn. Có diễn viên vòi vĩnh, đưa yêu sách với lãnh đạo đoàn. Tệ hại hơn, có mấy
cô ca sĩ, mấy chàng nhạc công còn "bịa" lời hát để cho ra đời CD
"Tiếu ngạo giang hồ" sặc mùi... "vô văn hoá". Lớp nghê sĩ
trẻ lo "đánh bóng" tên tuổi mình, lo kiếm sống nhiều hơn lo cho sự
nghiệp. Ca dao xưa đã có câu:" Bởi trên ở chẳng chính ngôi, cho nên kẻ
dưới chúng tôi hỗn hảo" kể cũng chẳng oan
chút nào cả.
Những
năm gần đây, vai trò của "Hội đồng nghệ thuật TP" xem ra có phần
"Hữu danh vô thực" bởi nhẽ sự xuất hiện trước khán giả những chương
trình nghệ thuật, những vở diễn yếu về nội dung, kém về nghệ thuật có một phần
trách nhiệm của Hội đồng nghệ thuật TP.(?)
Có một
thời, Xưởng phim của Đài PT-TH đã quy tập được nhiều tác giả, đạo diễn, diễn
viên... có "tên tuổi" như Đoàn Lê, Nguyễn Khắc Phục, Nguyễn Hữu Phần,
Văn Lượng, Lê Đức Tiến, Thu An, Chiều Xuân... và cho ra đời nhiều phim truyền
hình chất lượng cao như "Con
vá", "Chim bìm bịp", "Hạt vừng", "Gió quê",
"Nước mắt của biển", "Chuyện tình đảo cát" v.v... Ai cũng
mừng vì Cảng Hải Phòng là một đô thị lớn, có một xưởng phim làm ăn "ra
tấm, ra món" là điều rất cần thiết. Ấy vậy mà "ngày vui ngắn chửa tày
gang". Xưởng phim ngày càng làm ăn... đi xuống và lâu nay chưa thấy có tác
phẩm gì được giới thiệu trên màn ảnh nhỏ.(?)
Ngoài
các chương trình thời sự, phóng sự mang tính chất "ngợi ca địa phương, đơn
vị sản xuất, biểu dương người tốt việc tốt...", làm theo sự đặt hàng còn
các chương trình văn nghệ hầu như "toạ hưởng kỳ thành". Nhà đài chỉ
chờ đơn vị nào đã có chương trình hay để
mang camêra đến ghi hình. Việc chủ động sản xuất các chương trình mang tính
nghệ thuật còn rất yếu (vì kinh phí quá hạn hẹp (?)). Căn bản các chương
trình truyền hình của Đài PT-TH HP nặng về tính truyền thông còn yếu tố sáng
tạo nghệ thuật hầu như là thứ yếu. Vì thế Hội Điện ảnh - Truyền hình HP chỉ
"nói" chứ không "làm" được gì cả.
Nói
đến hoạt động văn học - nghệ thuật không thể không nói đến sự đóng góp tích cực
và có hiệu quả của các nghệ nhân và phong trào văn nghệ nghiệp dư. CLB Ca trù (của
Hội VNDG) đã gây tiếng vang trong các cuộc Liên hoan ca trù toàn quốc.
Nhiều nghệ nhân như bác Trần Văn Quế tuổi ngoại 70-80 vẫn say mê tay đàn tay
trống. Các bác không chỉ là nghệ sĩ biểu diễn mà còn là những nhà nghiên cứu,
nhưng thày dạy cho lớp cháu con kế tục.
Ở các làng quê, phường, xã... nhiều "gánh" chèo được
"sống" lại và trong hoạt động văn hoá cộng đồng, sự đóng góp
"cây nhà, lá vườn" là rất cần thiết. Với nguồn kinh phí quá ít ỏi,
các "nghệ sĩ chân đất" sống được nhờ sự yêu đến si mê cái nghiệp
"mua vui cũng được một vài trống canh" . Ở quận mới Dương Kinh, có
những ông bà đang đi xây những căn nhà "hàng mã" cho các chủ thầu đã
bỏ việc (mức lương 100.000đg/1ngày) để về tập kịch với mức bồi dưỡng
khiêm tốn: 30.000đg/ngày. Đúng là họ đã "sinh ư nghệ, tử ư nghệ".
Tiếc rằng nhiều khi các Hội thi, hội diễn, liên hoan... do Trung tâm Văn hoá
TP, Trung tâm Thông tin cổ động tổ chức đều đặn hàng năm lại không phát huy
được khả năng truyền bá trong công chúng. Sau hội diễn, hội thi... các tiết mục
xây dựng tốn hàng vài chục triệu đồng được... "thanh lý".
Nghị quyết của Đảng như kim chỉ
nam cho hoạt động VH-NT phát triển. Mặc dù trong điều kiện nền kinh tế chung
của cả nước còn gặp nhiều khó khăn. Nhưng nhà nước vẫn có những sự ưu tiên cần
thiết cho hoạt động VH-NT. Bộ VH-TT và Bộ Tài chính đã ra nghị quyết
số...... quy định rất cụ thể về kinh phí
cho các tác phẩm VH-NT. Dẫu đó vẫn còn là sự "tiết kiệm" nhưng nó
cũng đã góp phần động viên các văn nghệ sĩ . Cuộc sống không thể chỉ có
"hoa hồng" mà còn phải có "bánh mì". Sự kết hợp tương tác
đó là đòn xeo thúc đẩy sự hưng phấn trong sáng tạo. Tiếc thay, ở thành phố ta,
việc chi trả tiền nhuận bút cho các tác giả (tiền cho diễn viên, nhạc
công..) vẫn nặng trong sự "kiềm toả" của cơ quan quản lý tài
chính. Tự họ đã lạm dụng quyền "quản lý" tài chính để tiến hành
"xin và cho". Họ chi trả tiền
nhuận bút cho tác giả như một sự "ban ân" cho bao nhiêu được bấy
nhiêu chứ không dựa trên một cơ chế, pháp quy nào cả. Có những kịch bản được
tỉnh ngoài dựng lại mà tiền nhuận bút cho tác giả cao gấp nhiều lần tiền nhuận
bút các đoàn nghệ thuật CN sở tại trả lần đầu. Hỏi ra mới biết, ở các tỉnh bạn,
họ nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị 31. Còn ở TP ta, "quan thì xa, bản nha
thì gần". Tác giả và đạo diễn cả một chương trình truyền hình trực tiếp có
độ dài 90 phút mà chỉ được chi nhuận bút 5 triệu. Đài PT-TH Hải Phòng lại đặt
ra một "luật chi" riêng. Một diễn viên đóng một kịch ngắn thời lượng
30-40 phút được chi 240.000đg/1vai diễn. Tác giả KB được hưởng nhuận bút trên
dưới 200.000đg... Như vậy "phép Vua thua lệ làng". Trong thời buổi
giá cả leo thang mà tiền bồi dường quá "bèo bọt" đến thế thì người
nghệ sĩ sao mà chịu nổi? Vả lại như vậy có phải để tự đề cao vai trò của mình,
chính họ là người đã vi phạm tổ chức, "trên bảo, dưới không nghe" hay
không? Người nghệ sĩ thích một sự sòng
phẳng, công bằng, việc nào ra việc ấy. Họ không phải là những kẻ "ngửa tay
xin bố thí" mà họ muốn được đánh giá đúng quá trính lao động, sáng tạo
nghệ thuật của họ.
Lại nữa, nhiều cơ quan, công ty... ngay cả nhiều chương trình do TP tổ
chức, các đoàn nghệ thuật, các tác giả, đạo diễn "nội địa" cứ việc
"ngồi chơi xơi nước... chè loãng". BTC mời các ca sĩ "ngôi
sao" từ Trung ương, TP Hồ Chí Minh..., mời các tác giả, đạo diễn có tiếng
về tưởng sẽ làm cho chương trình thêm phần hoành tráng. Mặc dù nhiều chương
trình tốn kém tiền tỷ mà chất lượng thuộc "hàng... kém phẩm chất". Ca
sĩ trung ương phải trả từ 5 triệu đến 20 - 30 triệu đồng cho một lần biểu diễn
(từ 1 đến 2 bài). Rồi xe đưa, xe đón, quà lót tay làm kỷ niệm...Thế mà nhiều
khi họ lại hát "đớp" đánh lừa khán giả. Trong lúc đó, ca sĩ địa phương chỉ được trả 100 - 200 đồng/1
người. Thậm trí cả một chương trình chia ra không nổi 20.000đg/1người. Giá như
ta tìm cách nâng đỡ các văn nghệ sĩ "địa phương" một chút thì họ cũng
đỡ "tủi thân". Nhiều tác giả " địa phương" mang kịch bản
đến, các đoàn NTCN che ỉ, chê oi. Nhưng mang đi tỉnh khác hoặc lên trung ương
lại được dựng ngay. Phải chăng vẫn cảnh "Bụt chùa nhà không thiêng" . Chính sự "chỗ ăn không hết, chỗ lần không
ra" ấy đã làm các văn nghệ sĩ
"tỉnh lẻ" tự ty, mặc cảm thấy tủi thâm. Sự lãng phí một cách thái quá cũng không thu
được kết quả cao.
Nhiều "nghệ sĩ cấp huyện" đã dày công xây dựng chương trình để
góp tiếng nói trong các lễ hội (như lễ hội "Kỷ niệm 50 năm Tiên Lãng phá
càn 28/8-2008", "Lễ hội Núi Voi", "Lễ hội Trạng
Trình"... Với nguồn kinh phí quá kiêm tốn nhưng họ vẫn tạo nên không trí
vui tươi với các chương trình không kém phần hoành tráng. Họ làm để khẳng định
"tay nghề" của mình.
Nhiều tác giả từ "chân đất" đi lên như Đào Hướng (kịch bản
chèo "Canh bạc cuối cùng") anh nguyên là Bí thư huyện uỷ Thuỷ
Nguyên, Trưởng ban tổ chức Thành uỷ, Giám đốc Đài PT-TH HP. Đề cương kịch bản
"Gái ngoan dạy chồng" của anh qua sự góp ý và gia công của các anh Lê
Hùng, Bùi Đức Hạnh... đã thành vở diễn có tầm cỡ... quốc gia. Phương Linh
nguyên là anh thợ cơ khí của XN đường sông 202 đã "để đời" với nhiều
vở như "Hoa hậu Siđa", "Đôi bạn láng giềng", "Dòng
xoáy cuộc đời"... Cố NSND Ngọc Thuỷ nguyên là diễn viên kịch nói nhưng
nhiều vở diễn do anh dàn dựng đã đạt giải cao trong các kỳ hội diễn. Nhạc sĩ
Duy Thái nguyên là diễn viên kịch nói HP. Anh đã mượn "Lời của gió"
để đưa anh đến với môi trường sáng tác âm nhạc và thu được nhiều thành công...
Ngoài ra còn nhiều văn nghệ sĩ khác đi lên từ sự nỗ lực của bản thân. Nếu như
được sống trong môi trường thuận lợi, có sự hỗ trợ tích cực hơn thì chắc những
"con tằm" ấy sẽ nhả ra những sợi tơ óng mượt hơn nhiều.
Tôi có cảm giác như ở TP ta, Hội liên hiệp VH-NT với Sở VH-TT thiếu sự
kết hợp ăn ý. Nhiều khi hỏi về vở diễn mới của các đoàn NTCN, lãnh đạo Hội cứ ớ
ra như người "từ cung trăng mới tới". Thì ra nguyên nhân là các vị
chưa được mời đi xem. Ở các địa phương khác. Hội LHVH-NT với sở VH-TT như môi
với răng. Sau những buổi biểu diễn "báo cáo", Hội chuyên ngành cùng
các đoàn NTCH tổ chức hội thảo lấy ý
kiến của các bậc "cao niên" trong ngành và tham vấn đóng góp của các
văn nghệ sĩ để hoàn chỉnh chương trình. Ở TP ta, "đèn nhà ai, người nấy
rạng".
Ngay trong một Hội chuyên ngành, chuyện "nhà gác tư dành cho nghệ
sĩ" vẫn thường xảy ra. Nhiều nghệ sĩ vẫn nặng chữ "tôi" mà quên
đi tính tập thể. Có tác giả sđều có mặt trong các "Trại sáng tác"
nhưng tác phẩm hầu như không được sử dụng. Việc "hỗ trợ sáng tác"
không phải là "quỹ xoá đói giảm nghèo" nên không thể cơm lần, gạo
lượt mà phải ưu tiên cho người có tác phẩm. Có thể tác giả đó năm nào cũng được
đầu tư vì năm nào họ cũng "đẻ" ra những tác phẩm được giới thiệu
trong công chúng.
Các cụ ta thường nói: "Người
làm sao chiêm bao làm vậy". Không cần quy kết, chuy chụp mà chỉ nhìn vào
tác phẩm của các nghệ sĩ ta sẽ đọc được họ đang nghĩ gì, nhân sinh quan của họ
ra sao? Lập trường, quan điểm của họ thế nào? "Chim khôn tiếng hót rảnh
rang. Người khôn ăn nói dịu dàng dễ nghe". Tác phẩm VH-NT là tấm gương soi
những suy nghĩ, là nơi gửi gắm tâm tư tình cảm của tác giả. Đó là những đứa con
tinh thần của người nghệ sĩ. Người nghê sĩ không chỉ có chữ "Tài" mà
một yếu tố quyết định, không thể thiếu là chữ "Tâm". Thi hào Nguyễn
Du đã từng viết:"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Tiếc rằng trong
hàng ngũ nghệ sĩ TP ta còn có người thích lối sống "lập dị" để tỏ ra
khác người. Họ chẳng bao giờ đọc báo, tự tách mình ra khỏi cuộc sống đương đại.
Họ không cần đi nghe các buổi nói chuyện chuyên đề mà Hội LH tổ chức (Hội cũng rất ít khi tổ chức các buổi sinh
hoạt chính trị cho hội viên). Có đến họp cũng là đánh trống ghi tên để lĩnh
phong bì và ngồi nói chuyện tào lao với nhau cho hết giờ. Người nghệ sĩ tách
mình khỏi xã hội thì khác gì có giống cây tốt lại không có mảnh đất mầu mỡ để
gieo trồng.
Tôi nghĩ rằng:"Nghị quyết của Bộ chính trị về tiếp tục xây
dựng và phát triển văn học nghệ thuật trong thời kỳ mới" là sự
đánh giá đúng đắn của Đảng và Nhà nước về văn hoá-nghệ thuật của cả nước trong
giai đoạn vưà qua đồng thời thể hiện sự quan tâm, ưu ái của Đảng và Nhà nước
đối với văn nghệ sĩ. Căn bản là sự áp dụng để thực hiên ở từng địa phương.
Nghị
quyết của Đảng đã nêu rõ: ..."Trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hoá, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, phấn đấu sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại vào năm 2020, văn học nghệ thuật nước nhà đứng trứơc những thời
cơ, vận hội lớn, những thử thách mới, gay gắt".
Xã hội
không ngừng phát triển, cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề của mỗi con người khác
nhau nhưng nếu không có lập trường vững vàng, không tìm hiểu vấn đề từ mọi khía
cạnh, không nắm bắt thực tế... thì chuyện "bôi đen" nhiều hơn
"tô hồng" là không thể tránh khỏi. "Nhất bất biến ứng vạn
biến" là một quan điểm chính xác. Đó chính là những điều "bất
biến" đã được nêu ra trong Nghị quyết của Đảng ta do đ/c Tổng Bí thư Nông
Đức Mạnh đã ký ngày 16/6/2008.
Nếu ví : "Nhân dân là bể, văn nghệ là thuyền" thì con thuyền
văn nghệ của chúng ta đang mênh mông giữa biển cả. Nghị quyết của Đảng như kim
chỉ nam, định hướng cho con thuyền đến đích. Lãnh đạo các Bộ và địa phương là
những thuyền trưởng còn các văn nghệ sĩ là những thuỷ thủ. Con thuyền có đến
bến không là do tài chèo chống của họ. Con tàu đi nhanh hay chậm còn phụ thuộc
vào một yếu tố vô cùng quan trọng đó là chất lượng của nhiên liệu. Mà người giữ
chìa khoá kho nhiên liệu ấy chính là "chế tài".
Suy cho cùng, người nghệ sĩ hy tự đặt câu hỏi :mình đã làm đượcv gì có
ích cho dân, cho nước trước khi đòi hòi... sẽ được hưởng quyền lợi gì?
"Tiên trách kỳ, hậu trách nhân" là thế đấy.
TRẦN TUẤN TIẾN
Hội Sân
khấu Hải Phòng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét