Người vô học có anh bạn kết nghĩa từ thời "để
chỏm" - Nguyễn Ngọc Dương, cùng cầm tinh con chuột. Có lẽ vì thế mà tính
khí nhiều điểm giống nhau: giống nhất là đa tình, đa cảm, nhưng một khi đã đúng
thì bảo vệ đến cùng, không có gì khuất phục được. Đã yêu thì yêu đến... "tắt
thở", đã ghét thì dù có quyền uy như núi, tiền bạc như đại dương cũng coi
bằng...rác.
Nguyễn Ngọc Dương
đã nghỉ hưu 5 năm. Lão có con blog mang tên Phó nhòm tây bắc. Chả là
đang sinh sống ở tỉnh vùng biên Lào Cai, lại ở hội nghệ thuật “phó nháy”, gọi tắt là VAPA – cái sân
chơi vừa lý thú, sang trọng vừa phải bòn thêm tiền vợ để thỉnh thoảng đi lang
thang... tự sướng!
Mình vừa cho ra
mắt blog Người vô học thì Phó nhòm tây bắc đã lên tiếng chúc mừng và đăng một
bài nhan đề “Bạn Tiến”, rút trong tập Ký Hai miền quê của lão xuất bản năm
2009. Lão cũng gửi cho Người vô học để làm quà tặng. Đây là một tản văn xinh xắn mang tính hồi ký "kể chuyện
xấu” của cả hai thằng từ năm học lớp 7 trường huyện.
Bạn Tiến
Tuấn Tiến và Ngọc Dương thăm lâu đài cũ ở Lào Cai Ảnh: Trần Tuấn Tú |
Hôm đầu tiên gặp Tiến khi vào học lớp Năm,
tôi đã có ấn tượng. Người dễ có ấn tượng thường cũng chỉ có một biệt danh, đằng
này những hai: “Tiến rụt” và “Tiến sẹo”, chả biết bạn tự nhận từ bao giờ. Khi thân
nhau, tôi thấy những biệt danh ấy chẳng có nghĩa lí gì lắm, chỉ nói một phần bề
ngoài, chứ bên trong con người
bạn chẳng có gì “rụt” với “sẹo” cả.
Năm học lớp Sáu, Tiến đã biên kịch. Vở đầu
tiên có nhan đề Chú Cuội, được dàn
dựng cho các bạn trong lớp diễn khi tổng kết năm học. Chính bản thân Tiến đóng
vai Cuội. Bạn Hoa trong vai Hằng Nga. Còn tôi, chả có khổ khiếu gì, người thì
lẻo khoẻo lèo khoèo, da xanh như tàu lá, mà chẳng hiểu sao Tiến lại chọn tôi
vào vai em chị hằng Nga. Tôi khoái
lắm, vì được làm “em người đẹp”, nhưng quyết để bụng, không nói với ai. Vở diễn
của chúng tôi từ biên kịch, đạo diễn, diễn viên đến âm thanh, ánh sáng, trang
trí sân khấu...tất tần tật đều là các “nghệ sĩ bất đắc dĩ”, thế mà ai ngờ nức
tiếng cả trường! Bởi vì, dù ngô nghê thật, nhưng vẫn có nhiều pha khiến người
xem cười rung bụng...Từ đấy, Tiến chẳng những nổi tiếng ở trong lớp mà cả trường,
cả phố huyện, hễ nói đến Trần Tuấn Tiến thì không ai lạ gì.
Tôi nhớ mãi một buổi tối mùa hè, trời
nóng quá, cả lớp khênh bàn ghế ra sân trường ngồi ôn thi. Ngày ấy phố huyện chưa
có điện, cứ mỗi anh một cái đèn Hoa kỳ, chỉ đủ soi sáng quyển sách hay quyển vở
học sinh. Mải lúi húi làm bài, lúc sau nhìn sang bàn Tiến, chẳng thấy bạn đâu.
Tôi nghĩ: Chắc lại ra gốc cây phượng “giải quyết nỗi buồn!” Nhưng đến hai mươi
phút vẫn chưa thấy quay lại. Đèn, sách, bút mực... vẫn y nguyên trên bàn. Tôi
sinh nghi, bèn đứng dậy đi ra phía cổng trường. Cái loa nén công cộng gần đó đang
phát chương trình Hát chèo của Đài
Tiếng nói Việt Nam .
Tôi tiến gần đến cái cột loa. Một bóng đen lù lù ngồi ở mô đất gần đó. Tiến đang
cắm đầu đánh trống chèo theo Đài! Thì ra lúc đi học, bạn biết tối hôm đó có chương
trình hát chèo của Đài, nên đã thủ sẵn cái trống đế tí xíu và đôi dùi trống được
đẽo gọt cẩn thận. Tiến đã mê chèo, nhất là trống chèo từ bao giờ chả biết! Vì
thế sau này lại có nhiều người gọi Tiến là “Tiến Chèo”
Ông cụ thân sinh ra Tiến là một thầy
lang nổi tiếng cả về y thuật lẫn y đức. Cụ có hiệu thuốc Bắc lớn nhất khu vực.
Nhà Tiến lại ở ngay cổng chợ Phủ (chợ huyện), nên khi nói đến cụ lang Suôi thì
cả vùng ai cũng biết. Do điều
kiện của chiến tranh và cuộc di dân đi làm kinh tế ở miền núi, chúng tôi thất
lạc nhau một thời gian dài, nên cụ lang Suôi mất, tôi không được biết. Sau này
gặp lại, Tiến kể: Lúc lâm chung, ông cụ
gọi cả bốn người con trai, trong đó Tiến là út, giăng giối một điều: “Sau này,
các con đứa nào muốn làm giầu thì không được theo nghề của cha; ngược lại, muốn
theo nghề cha trị bệnh, cứu người thì tuyệt nhiên không được có tư tưởng làm
giầu!”...
Vào học kì hai lớp sáu, bài vở ngày càng
nhiều, bu tôi bảo: “Thôi, buổi chiều bu cũng không bắt con đi chăn trâu nữa,
con đi trọ học đi, kẻo ngày nào cũng đi bộ đến trường, vừa đi vừa về sáu, bẩy
cây số mà người thì xanh rớt thế kia, bu không yên tâm tí nào!” Thế là tôi đến nhà Tiến xin trọ. Nhà Tiến đã đông người, hai
ông bà, bốn anh con trai, lại là hiệu thuốc, cứ vài hôm là có xe chở hàng chục
bao tải vị thuốc từ Hải Phòng về chất hết cả một gian nhà. Nhưng khi đặt vấn đề,
ông bà vẫn vui vẻ nhận lời: “Thôi thì có gì ăn nấy; tối chúng mày ôm nhau ngủ
chung một giường cũng được”...
Năm sau, lên lớp Bẩy, nhà Tiến lại có
thêm một cậu em con cô ở dưới quê vào lớp Năm lên trọ học. Thấy quá chật chội,
tôi liền bàn với Tiến và ông bà cho phép chuyển sang trọ ở nhà bà Quỳ ở xóm
trong, cách đấy khoảng một cây số, nhưng ra lớp học cũng gần. Gia đình đành
chấp nhận. Phải xa nhau, hai thằng cùng buồn. Ở nơi trọ mới, tôi tự nấu ăn. Bu
tôi cho mang theo hai cái xoong nhôm bé xíu, một cái để nấu cơm, một cái để nấu
thức ăn. Mỗi sáng thứ Hai khi bắt đầu từ nhà đi, bu tôi đã đong sẵn gạo cho đủ ăn
sáu ngày trong tuần, tính ra mỗi bữa hai lẻ*, một ngày bốn lẻ, nấu được bốn bát
cơm. Vị chi cả tuần hai mươi bốn lẻ gạo, tương đương với hai phẩy bốn ống bơ,
một đơn vị đo lường của những người buôn bán gạo chợ thời ấy. Còn tiền mua thức
ăn, bu tôi tính cho mỗi bữa năm xu. Số tiền ấy mua được những hai mớ rưỡi rau
muống, bằng một bữa rau của cả nhà tôi sáu, bẩy người ăn. Nhưng tôi dành số tiền
đó mua trứng vịt. Còn rau thì ở bờ ruộng thiếu gì. Rau má cứ hái lấy một nắm
rửa thật sạch, luộc tái lên, chấm nước
mắm ớt, ngon tuyệt vời. Thài lài, rau dệu , rau sam và nhất là cái anh rau dền
cơm hái nấu canh không phải cho mì chính cũng ngọt. Buổi trưa mọi người ăn xong
đi nghỉ, tôi rủ anh bạn cùng trọ học ra con sông nhỏ cách nhà độ vài trăm mét,
mang theo một cái chậu sắt tráng men để trôi lềnh bềnh trên mặt nước rồi ngụp
xuống mò hến. Chỉ nửa tiếng sau là có
một vốc tay hến, đủ được một bữa chiều thịnh soạn. Cái tang hến nấu canh sao mà
nó ngọt thế!...Thỉnh thoảng buổi chiều hoặc tối, Tiến vào chơi với tôi. Có lần
vào đúng lúc sắp ăn cơm, tôi bảo Tiến ngồi chờ. Tôi bắc nồi cơm, mở vung, ra vẻ
khoe khoang lấy quả trứng hấp trong nồi,
ngâm vào bát nước lã cho nguội rồi bóc vỏ cho vào bát nước mắm, dầm ra
với hai quả ớt thóc . Tiến hỏi: “ Chỉ có thế thôi à?” Tôi nghĩ bụng “chắc thấy
mình ăn sang, hắn “chọc” đây!” Tôi liền lý giải: “Sáng kiến này tiết kiệm được
một khoản chất đốt đáng kể để nấu thức ăn. Chỉ nấu mỗi xoong cơm, trứng hấp vào
đây, nước mắm không phải nấu, ớt ăn sống... Đúng là, nếu ở nhà, quả trứng này
quấy với nửa bát bột mì, lấy lá chuối áp chảo thì còn đủ bữa cho cả nhà mình đấy.
Đi trọ học thế này, lắm lúc mình thấy xài hơi hoang thật, nhưng vì điều kiện xa
nhà, mình ăn uống lem nhem quá, người ta cười cho!”...
Không hiểu sao từ đấy trở đi, lần nào vào chơi, Tiến cũng có một cái gì
mang cho tôi. Khi thì cái bánh bao, khi thì mấy hào lẻ , lúc thì vài quả ổi
chín. Có lần vừa vào đến nơi, Tiến móc túi quần ra một quả trứng gà. Tôi hỏi:
“Lấy đâu ra của quí thế này?” “Gà nhà đẻ đấy.” “ Sao không để cho nó ấp?” “ Có
chứ, nhưng không cần ấp hết. Con gà này mắn đẻ, cho ấp ít thôi nó mới đậu được!”
Tôi cũng tin như vậy. Một hôm ra nhà Tiến chơi, tôi thấy mẹ Tiến lúi húi ở dưới
bếp quét tước, dọn dẹp rồi bà hỏi anh Lộc, anh trai Tiến: “Lộc ơi, hồi này con
gà mái nhà mình thế nào mà nó toàn đẻ “cách nhật” thôi!”... Có lẽ chỉ Tiến với
tôi là trả lời được câu hỏi ấy....
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét